Bước tới nội dung

Uruguay

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Đông Uruguay
Tên bản ngữ
Quốc huy Uruguay
Quốc huy

Tiêu ngữLibertad o Muerte
"Tự do hay là Chết"

Quốc caHimno Nacional de Uruguay
"Quốc ca Uruguay"
Mặt Trời tháng Năm[1][2]
(Sol de Mayo)

Sol de Mayo
Vị trí của Uruguay (xanh đậm) ở Nam Mỹ
Vị trí của Uruguay (xanh đậm)

ở Nam Mỹ

Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Montevideo
34°53′N 56°10′T / 34,883°N 56,167°T / -34.883; -56.167
Ngôn ngữ chính thức
Sắc tộc
(2023)[5]
Tôn giáo
(2021)[6]
  • 38.0% không tôn giáo
  • 1.2% tôn giáo khác
Tên dân cưNgười Uruguay
Chính trị
Chính phủCộng hòa tổng thống chế đơn nhất
Yamandú Orsi
Carolina Cosse
Lập phápQuốc hội
Thượng viện
Hạ viện
Lịch sử
Độc lập 
25 tháng 8 năm 1825
27 tháng 8 năm 1828
15 tháng 2 năm 1967
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
176.215 km2[8] (hạng 89)
68.037 mi2
• Mặt nước (%)
1,5
Dân số 
• Điều tra 2023
3.499.451[7] (hạng 132)
19,5/km2 (hạng 206)
48,3/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2024
• Tổng số
Tăng 107,946 tỷ đô la Mỹ[9] (hạng 98)
Tăng 36.014 đô la Mỹ[9] (hạng 59)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2024
• Tổng số
Tăng 82,605 tỷ đô la Mỹ[9] (hạng 77)
• Bình quân đầu người
Tăng 23.088 đô la Mỹ[9] (hạng 49)
Đơn vị tiền tệPeso Uruguay (UYU)
Thông tin khác
Gini? (2022)Giảm theo hướng tích cực 40,6[10]
trung bình
HDI? (2023)Tăng 0,862[11]
rất cao · hạng 48
Múi giờUTC−03:00 (Giờ Uruguay)
Cách ghi ngày thángdd/mm/yyyy
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+598
Mã ISO 3166UY
Tên miền Internet.uy


Uruguay (/ˈjʊərəɡw/ [12] YOOR-ə-gwy, tiếng Tây Ban Nha: [uɾuˈɣwaj] ), quốc hiệu là Cộng hòa Đông Uruguay (tiếng Tây Ban Nha: República Oriental del Uruguay), là một quốc gia ở Nam Mỹ, phía bắc giáp với Brasil, phía tây giáp với Argentina (qua sông Uruguay), phía tây nam là sông la Plata và phía đông nam hướng ra Đại Tây Dương. Đây là quốc gia có diện tích nhỏ thứ hai ở Nam Mỹ, chỉ lớn hơn Suriname.

Nguồn gốc của Uruguay là Colonia del Sacramento, một trong số những khu định cư lâu đời nhất ở Nam Mỹ của người châu Âu do Đế quốc Bồ Đào Nha thành lập. Sau này, Đế quốc Tây Ban Nha đánh chiếm và xây dựng tại vùng đất mà ngày nay là thủ đô Montevideo vào đầu thế kỷ 18. Người Uruguay nổi dậy đấu tranh giành độc lập vào những năm 1811-1828 từ ba nước Tây Ban Nha, ArgentinaBrasil, hình thành nên quốc gia riêng biệt.

Uruguay là một trong những quốc gia phát triển nhất ở Nam Mỹ với GDPthu nhập bình quân đầu người ở mức cao. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Uruguay là nước ít tham nhũng nhất ở Mỹ Latinh (cùng với Chile).[13] Uruguay đứng đầu ở Mỹ Latinh về các chỉ số dân chủ, chỉ số hòa bình, chính phủ điện tử,[14] tự do báo chí, chất lượng cuộc sống của tầng lớp trung lưu và mức độ thịnh vượng. Tính theo bình quân đầu người. Quân đội Uruguay là lực lượng có đóng góp số lượng binh lính lớn nhất cho các sứ mệnh gìn giữ hòa bình trên toàn cầu của Liên Hợp Quốc và cũng đồng thời nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới.[15] Uruguay cũng xếp hạng thấp nhất ở Nam Mỹ về chỉ số khủng bố. Ngoài ra, Uruguay cũng đứng thứ 2 trong khu vực về mức độ tự do kinh tế, bình đẳng thu nhập, thu nhập bình quân đầu người và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Uruguay xếp thứ 3 châu Mỹ về chỉ số phát triển con người, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm, tốc độ đổi mới cùng chất lượng cơ sở hạ tầng.[16] Đây là một quốc gia có thu nhập cao theo phân loại của Liên Hợp Quốc. Uruguay là một nhà xuất khẩu quan trọng trên toàn cầu về một số mặt hàng quan trọng như len, gạo, đậu nành, thịt bò đông lạnh, mạch nha và sữa.[15] Phần lớn điện lực của Uruguay là năng lượng tái tạo như thủy điệnđiện gió.[17] Uruguay là thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, Mercosur, Liên minh các Quốc gia Nam MỹPhong trào không liên kết.

Uruguay được coi là một trong những quốc gia tiến bộ nhất về xã hội ở Mỹ Latinh. Năm 2007, Uruguay là nước đầu tiên ở Mỹ Latinh thực hiện kết hợp dân sự cho những người cùng giới. Năm 2013, Uruguay trở thành nước đầu tiên trên thế giới cho phép hoàn toàn việc sản xuất, mua bán và tiêu thụ cần sa.

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tiếng Tây Ban Nha República Oriental del Uruguay dịch sang tiếng ViệtCộng hoà Đông Uruguay vì Uruguay có vị trí địa lý ở phía đông sông Uruguay. Vì Uruguay trong tiếng Guaraní nghĩa là con sông nơi mà loài chim đang sống nên Việt Nam Cộng hòa gọi Uruguay là Điểu Hà. Địa danh này vẫn được cộng đồng người Việt hải ngoại dùng để chỉ Uruguay trong những trận bóng đá.[18]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tây Ban Nha chinh phục

[sửa | sửa mã nguồn]
River Plate Người Anh Điêng với Boleadoras (Hendrick Ottsen, 1603)

Khi người Tây Ban Nha đến khai phá Uruguay vào đầu thế kỷ 16 thì bị thổ dân chống đối. Người Bồ Đào Nha lúc bấy giờ đã chiếm được Brasil cũng kéo xuống đòi chủ quyền khiến Uruguay trở thành chiến trường giữa hai đế quốc, Bồ Đào NhaTây Ban Nha. Khoảng năm 1669 - 1671, Bồ Đào Nha lập đồn lũy ở Colonia del Sacramento hầu kiểm soát khu vực này. Trong khi đó Tây Ban Nha cũng tìm cách đưa dân đến lập nghiệp để củng cố chủ quyền vì biên giới giữa Phó vương quốc Río de la Plata và Brasil không được ấn định. Năm 1680 quân Tây Ban Nha chiếm được dải đất phía đông sông La Plata mà họ gọi là Banda Oriental nhưng lại hoàn lại cho Brasil năm 1681 sau hòa ước giữa hai nước. Quân Tây Ban Nha lại tiến chiếm mấy đợt nữa: 1705-18, 1762, đến năm 1777 Tây Ban Nha chiếm ưu thế. Triều đình Tây Ban Nha cho xây tòa thành lớn ở Montevideo dùng đó làm căn cứ quân sự và phát triển thành hải cảng lớn. Tầm vóc của Montevideo dần ngang ngửa với Buenos Aires bên Argentina. Vào những năm 1806 - 1807, trong khi bên Âu châu Anh và Pháp lâm chiến thì ở Nam Mỹ cuộc chiến chống Napoleon cũng cuốn Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào vòng binh lửa. Vì Tây Ban Nha là đồng minh của Pháp nên hải quân Anh khai hỏa, tấn công Montevideo lẫn Buenos Aires. Cả hai thị trấn thất thủ; quân Anh chiếm được Montevideo vào năm 1807 nhưng không bao lâu thì quân Tây Ban Nha tái chiếm được.

Đấu tranh giành độc lập

[sửa | sửa mã nguồn]
Tình hình chính trị vùng sông La Plata đầu thế kỷ 19
José Gervasio Artigas

Năm 1811, José Gervasio Artigas, dấy binh chống lại chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha. Hai bên giao chiến. Ngày 18 tháng 5, 1811 quân của Artigas thắng lớn trong trận Las Piedras; quân triều đình do kinh lược sứ Francisco Javier de Elío chỉ huy tuy thua trên bộ nhưng vẫn còn đường biển nên gửi thư mời quân Bồ Đào Nha tham chiến dẹp quân phiến loạn. Nghe tin thấy quân Bồ sắp vào, phe cách mạng ở Buenos Aires sợ hai mặt thụ địch nên giảng hòa với Elío, chấp nhận cho Elío cai trị Banda Oriental. Artigas giận lắm vì bị phản bội nên rút quân về Entre Ríos.

Chính phủ cách mạng sau đó nhóm họp ở Buenos Aires để chọn quốc hội lập hiến. Artigas thì tranh đấu đòi lập thể chế liên bang để mỗi vùng như Banda Oriental có quyền tự trị về chính trị và kinh tế.[19] Tuy nhiên nhóm Buenos Aires không chịu cho đại biểu của Banda Oriental tham gia và chỉ chấp nhận một thể chế trung ương đơn nhất, tập trung quyền lực vào một nơi.[19]

Không được nhìn nhận, Artigas rút khỏi Buenos Aires và kéo quân về vây Montevideo vẫn do Elío chỉ huy; chẳng bao lâu thành Montevideo thất thủ, Artigas lên nắm quyền, đó là năm 1815.[19] Artigas tuyên bố chính phủ tự trị[19] và lập Liga Libre tức Liga de los Pueblos Libres (Liên đoàn dân tự do) gồm sáu tỉnh ở hạ lưu sônng Uruguay.[19]

Trong khi đó thấy tình hình rối loạn một vạn quân Bồ Đào Nha kéo vào chiếm lấy Banda Oriental năm 1816, lập ra xứ Cisplatina thuộc Brasil. Thành Montevideo thất thủ Tháng Giêng 1817.[19] Quân của Artigas phải rút về thôn quê hoạt động. Mấy phe lâm chiến đều phái quân vào khu vực: quân của chính phủ Trung ương Buenos Aires (Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata), quân địa phương của Artigas và quân Bồ nhưng bất phân thắng bại. Cuộc chiến dai dẳng đến năm 1822 thì Brasil độc lập, lập ra Đế quốc Brasil. Quân Bồ rút đi thay thế bởi quân Brasil; chiến cuộc vẫn tiếp diễn.

Ba năm sau ngày 25 Tháng Tám 1825, Juan Antonio Lavalleja lãnh tụ của nhóm quân địa phương dưới tên 33 Oriental tuyên bố xứ Banda Oriental độc lập, lại được phe Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata ở Buenos Aires ủng hộ[20] nên chiến tuyến thu hẹp thành hai phe rõ rệt: quân Brasil và quân độc lập. Hai bên giao chiến gần hai năm (chiến tranh Cisplatina) nhưng tình hình quân sự vẫn không dứt khoát. Vương quốc Anh vốn muốn tình hình ổn định để việc buôn bán được phát đạt bèn đứng làm trung gian giảng hòa để hai bên ký kết Hiệp ước Montevideo năm 1828. Theo đó khai sinh nước Uruguay độc lập. Cả hai thế lực Brasil và Argentina lui binh. Ngày 18 Tháng Bảy 1830 tân chính phủ Uruguay ban hành hiến pháp mới.

Thế kỷ 19

[sửa | sửa mã nguồn]
Manuel Oribe

Về mặt đối ngoại Uruguay đã được các nước lân bang công nhận nhưng chính trị quốc nội bị chia rẽ trầm trọng. Bên bảo thủ, tục gọi là phe Blanco (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là "trắng") và phe cấp tiến, tục gọi là Colorado ("đỏ") kình nhau trên chính trường suốt gần 100 năm.

Fructuoso Rivera lúc bấy là lãnh tụ phe Colorado, chủ yếu được giới thương gia ở Montevideo ủng hộ; bên Blanco thì có Manuel Oribe làm thủ lãnh, phần lớn do dân quê hậu thuẫn. Mỗi bên đeo băng vải ở tay màu trắng hay màu đỏ để nhận ra nhau. Tình hình bên Argentina cũng tương tự giữa bên cấp tiến và bảo thủ, lôi cuốn luôn chính trị ở Uruguay; mỗi nhóm tìm cách liên kết với đảng phái ngoại bang mà diệt đối thủ quốc nội.

Lúc đảng cấp tiến của Argentina là Unitaria thất thế, nhiều đảng viên phải lưu vong bỏ chạy sang Uruguay. Tổng thống Uruguay lúc bấy giờ là Manuel Oribe thuộc phe bảo thủ Blanco thì lại liên minh với lãnh tụ bảo thủ của Argentina là Manuel de Rosas. Đảng Đỏ quốc nội không chấp nhận nên nhân đó nổi loạn ngày 15 Tháng Sáu, 1838 lật đổ Oribe; Oribe chạy thoát được sang Argentina tá túc.[21] Lãnh tụ của Đảng Đỏ là Rivera lên cầm quyền rồi tuyên chiến với Argentina năm 1839, mở đầu cuộc chiến 13 năm dài. Sử gia Uruguay gọi đó cuộc Đại chiến "Guerra Grande".[21]

Năm 1843, quân Argentina vượt biên giới vào Uruguay để đưa Oribe về nước. Liên minh quân bảo thủ vây hãm thủ đô Montevideo suốt chín năm trời.[22] Phe cấp tiến Colorado của Rivera liền cầu cứu bên Âu châu. Pháp và Ý phê thuận và sửa soạn binh thuyền sang tham chiến. Giuseppe Garibaldi lúc bấy giờ đang lưu vong ở Montevideo được bổ làm chủ tướng của đoàn quân Ý.[22]. Tình hình quân sự càng hỗn loạn. Việc ra vào sông La Plata bị gián đoạn khiến nước Paraguay ở thượng nguồn bị cắt đứt không liên lạc được. AnhPháp vốn nắm địa vị thương mại then chốt trong khu vực bị thiệt hại nhiều nên lập liên minh trên danh nghĩa tái lập trật tự nhưng đúng ra là chống lại lãnh tụ Rosas của Argentina. Argentina cũng tuyên chiến với cựu thù Brasil. Chiến thuyền hai nước Anh Pháp cùng với quân Uruguay kéo vào cửa biến phong tỏa hải cảng Buenos Aires. Brasil cũng điều quân tham chiến tiến sâu vào lãnh thổ Argentina.

Trận Caseros

Bị dồn vào bước đường cùng Rosas phải xin hòa, ký thỏa thuận với Anh (1849) và Pháp (1850), theo đó quân Argentina phải triệt thoái khỏi Uruguay không ủng hộ Oribe nữa. Oribe phải tự cầm quân cố đánh lấy Montevideo. Năm 1851 tình hình bỗng xáo trộn vì Justo José de Urquiza, sĩ quan Argentina đột nhiên bỏ Rosas mà ủng hộ bọn cấp tiến Unitaria, kéo quân sang Uruguay đánh tập hậu đoàn binh của Oribe, giải vây Montevideo. Quân cấp tiến Colorado trong thành Montevideo ăn mừng. Urquiza sau đó lại liên minh với Uruguay và Brasil kéo quân trở về Argentina, đánh quân của Rosas trong trận Caseros ngày 3 Tháng 2 năm 1852. Rosas thua to phải bỏ Argentina mà lưu vong sang Anh. Hòa bình tái lập với phe cấp tiến cầm quyền ở cả hai nước Argentina và Uruguay.

Tình hình quốc nội Uruguay chưa yên thì thế cuộc lại đẩy Uruguay vào cuộc chiến nữa. Nguyên là năm 1863 Bernardo Prudencio Berro thuộc đảng bảo thủ Blanco đắc cử lên nắm quyền. Đảng cấp tiến Colorado của Venancio Flores bất bình rồi nổi loạn, lật đổ Berro. Flores lại liên kết với Brasil còn Berro thì cầu viện Argentina. Để có thêm hậu thuẫn, Berro mời Francisco Solano López lãnh tụ Paraguay vốn sẵn có hiềm khích với Brasil để giúp đỡ Đảng Trắng chống Brasil ở Uruguay.

Quân Brasil tràn vào Uruguay năm 1864 giúp Đảng Đỏ và Flores giữ được địa vị nhưng mất đến 90% lực lượng. Berro phải rút lui. Paraguay nhân danh đồng minh với chính phủ Berro tuyên chiến với Uruguay của Flores luôn. Vì muốn mở đường tiếp viện từ Paraguay xuống Uruguay, López phải mượn đường cho quân đội Paraguay băng qua lãnh thổ của Argentina. Argentina không thuận cho. López nổi giận đòi gây hấn với Argentina luôn. Thế là tình hình thay đổi toàn diện, chiến cuộc chuyển từ nội chiến Uruguay với hai thế lực Argentina và Brasil đứng sau lưng, nay dồn sang Paraguay với ba nước Uruguay, Brasil và Argentina cùng liên minh đánh Paraguay, sử gọi là chiến tranh Tam Đồng minh. Paraguay đại bại phải cắt đất hàng chục nghìn cây số vuông nhường cho Argentina và Brasil và chịu bồi thường binh phí.

Ở Uruguay oái oăm thay tuy thuộc phe chiến thắng, chính phủ Flores không thu hoạch được gì rồi chính Flores bị ám sát ăm 1868, cùng ngày với cựu thù Berro.

Quốc gia tan hoang vì quá mệt mỏi, hai đảng cấp tiến Colorado và bảo thủ Blanco đành thỏa hiệp năm 1872 chung sống nhưng chia vùng ảnh hưởng: đảng cấp tiến Colorado kiểm soát thủ đô Montevideo và dải duyên hải. Sâu trong lục địa thì đảng bảo thủ Blanco độc quyền ở bốn trong số 13 tỉnh bộ: Canelones, San José, Florida và Cerro Largo. Đảng Trắng cũng được cam đoan một số ghế tối thiểu trong quốc hội.[23] Ngoài ra Đảng Trắng cũng được trả khoản bồi thường nửa triệu Mỹ kim để bù đắp việc rút khỏi thủ đô. Tình hình chính trị bớt bạo động nhưng mầm mống chia rẽ vẫn tồn tại âm ỉ, chi phối chính trường quốc nội vì hiềm khí giữa hai đảng vẫn không bớt. Đảng Đỏ lợi dụng đợt cải cách hành chánh thập niên 1890 để giảm uy thế của Đảng Trắng nhưng thất bại. Số tỉnh bộ tăng lên từ 13 lên 16 và lần này Đảng Trắng được toàn quyền trong sáu tỉnh và 1/3 ghế trong quốc hội.[24]

Năm 1875 trong khi hai Đảng Đỏ và Blanco còn xung đột thì nội bộ Đảng Đỏ phân hóa thành hai phe: principistaneto. Nhóm principista sẵn sàng hợp tác với Đảng Trắng nhưng nhóm neto thì nhất quyết không chịu đứng chung chấp chính. Thủ lĩnh Đảng Trắng là Aparicio Saravia lợi dụng tình thế đó mà liên kết với nhóm tướng lãnh lật đổ tổng thống Pedro Varela mới lên chấp nhiệm được hai tháng. Nhóm quân nhân sau đó lần lượt thay nhau lên nắm quyền, không lập chính phủ dân sự.[25]

  1. Lorenzo Latorre (1876–1880),
  2. Francisco Antonino Vidal (1880–1882),
  3. Maximo Santos (1882–1886),
  4. Francisco Antonino Vidal (1886)
  5. Maximo Santos (1886)
  6. Máximo Tajes (1886–1890)

Nhưng cũng chính vì giới quân nhân lên nắm quyền, dẹp bỏ tranh chấp chính trị giữa hai Đảng Trắng và Colorado mà Uruguay tiến vào thời kỳ phát triển vững vàng, lập nền móng cho một nền kinh tế thịnh vượng. Ý kiến của các nhà kỹ nghệ và đại điền chủ đều được hính phủ quan tâm thực hiện.[25] Với khí hậu ôn hòa, đất rộng người thưa, Uruguay xoay sang chiêu mộ di dân từ Âu châu sang lập nghiệp, đại đa số xuất phát từ ÝTây Ban Nha. Tỷ lệ di dân nhập cư tăng mạnh từ 48% dân số (1860) lên 68% (1868). Sang thập niên 1870, khoảng 100.000 người Âu châu đã tìm sang Uruguay sinh sống. Tính đến năm 1879 thì chỉ trong hai thập niên Uruguay đã đón nhận 438.000 người. Hơn 100.000 người mới tới lập nghiệp luôn ở thủ đô Montevideo, mang nếp sống Âu Tây cho đô thị non trẻ.

Về mặt kinh tế, ngân hàng đầu tiên khai trương ở Uruguay năm 1857. Tiếp theo là hệ thống đường sắt, điện lực, điện tín tỏa ra nối liền mọi miền thành thị và nông thôn. Ngành chăn nuôi phát triển mạnh nhất, góp phần cho ngành xuất cảng nổi trội. Các đàn mục súc như chiên cừu nhảy vọt từ ba triệu lên 17 triệu do phương pháp cải tiến chăn nuôi của những dân Âu châu nhập cư.

Montevideo biến thành trung tâm kinh tế lớn vì vị trí thiên nhiên với thương cảng thuận tiện ở cửa sông La Plata. Khác với Buenos Aires, Montevideo không bị nạn cát bồi nghẽn cửa sông nên thương thuyền hàng hải có thể ra vào dễ dàng. Montevideo hiển nhiên trở thành trạm trung chuyển hàng hóa cho cả ba nước: Argentina, BrasilParaguay. Các thị trấn PaysandúSalto dọc sông Uruguay cũng hưởng lợi, phát triển nhanh chóng.

Thế kỷ 20

[sửa | sửa mã nguồn]

Uruguay tiếp tục phát triển vào đầu thế kỷ 20 với diện tích chăn nuôi mở rộng. Hàng rào kẽm gai giúp nhà nông kiểm soát đàn mục súc, chủ yếu là cừu và bò, thay vì thả rong phải chăn thành đàn như xưa. Các nông phẩm như da bòlen tăng đáng kể, dẫn đầu các mặt hàng xuất cảng kể từ năm 1884 trở đi. Kỹ thuật đông lạnhđóng hộp thúc đẩy việc xuất cảng thịt bò. Các nhà kỹ nghệ nhất là người Anh bỏ vốn ra canh tân đường sắt và thương cảng Montevideo để thu lời. Vì chính trị đã tương đối ổn định, tình hình an ninh cũng cải thiện cho dù vấn nạn tham nhũng vẫn đeo đuổi nước Uruguay.

Juan Idiarte Borda

Năm 1890, Đảng Đỏ trở lại chấp chính khi phe quân nhân rút lui. Tổng thống Juan Idiarte Borda thuộc Đảng Đỏ không may bị ám sát năm 1897, bỏ trống ghế hành pháp. Đảng Trắng do Aparicio Saravia lãnh đạo đòi Đảng Đỏ phải nhường quyền nhưng không thành. Năm 1903 Đảng Đỏ đưa José Batlle y Ordóñez lên làm tổng thống nhưng không lâu sau đó Đảng Trắng lại nổi loạn, cả vùng nông thôn bị cuốn vào cơn khói lửa kéo dài tám tháng. Chuỗi bạo động chỉ bị dập tắt khi chủ tịch Đảng Trắng là Saravia tử trận. Đảng Đỏ lại chiếm ưu thế và đến năm 1905 mở cuộc tổng tuyển cử, đưa nền chính trị Uruguay vượt qua một chặng khủng hoảng lớn.

Batlle là lãnh đạo Đảng Đỏ, chủ trương dồn hết nỗ lực vào việc phát triển kinh tế. Chính phủ mở rộng tầm kiểm soát và kích thích mọi ngành kể cả xuất công quỹ đầu vốn cho vùng nông thôn nơi Blanco nắm ưu thế. Chính phủ cũng đề ra nhiều cải cách về giáo dục, an ninh xã hội, lao động, và hình sự như hủy bỏ án tử hình và hộ sự như cho phép phụ nữ đứng đơn ly dị. Địa vị của Giáo hội Công giáo La Mã giảm dần, nhường chỗ cho một xã hội dân sự tự do hơn.

Batlle chấp chính hai nhiệm kỳ (1903-1907 và 1911-1915) nhưng cũng lo ngại là bao nhiêu cải cách ông thực hiện sẽ bị đảo ngược trong nay mai nếu tình hình chính trị giữ nguyên công thức hiện hữu, tức là hai Đảng Đỏ và Đảng Trắng tiếp tục đối đầu. Muốn thay đổi toàn diện, Batlle đề nghị soạn hiến pháp mới, trong đó điều khoản quan trọng là lập cơ chế hành pháp tập thể gọi là colegiado để phân quyền. Tổng thống trông coi ngoại giao, quốc phòng và an ninh quốc gia. Phụ tá tổng thống là Consejo Nacional de Administración, tức Hội đồng quốc gia hành chánh, thường gọi là colegiado có chín người, đảm nhiệm những thành phần khác như y tế, kỹ nghệ, lao động, nông nghiệp, giáo dục. Hội đồng này cũng sẽ lãnh phần soạn ngân sách. Sáu trong chín ghế thuộc đảng cầm quyền, ba ghế còn lại do đảng đối lập giữ. Colegiado đầu tiên nhóm họp năm 1919.[26]

Với cơ chế hành pháp phân quyền, Uruguay bước vào thời kỳ ổn định lâu dài. Cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu thập niên 1920-30 gây ra không ít khó khăn nhưng quốc gia vẫn phát triển về mọi mặt.

Năm 1930, Uruguay là nước tiên phong đăng cai tổ chức World Cup túc cầu. Kỳ đó Uruguay đánh bại đối thủ không ai khác hơn là nước lân bang Argentina với tỷ số 4-2. Uruguay đi vào lịch sử thế giới năm 1930 với sự kiện đó. Hai mươi năm sau Uruguay lần nữa lại đoạt giải vô địch túc cầu năm 1950, lần này chiến thắng đội Brasil.

Chế độ độc tài dân sự - quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối thập niên 1950, kinh tế Uruguay phải đối diện với nền kinh tế suy giảm. Ngành xuất cảng yếu dần trong khi lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng kéo theo bất ổn xã hội: sinh viên và công nhân thường xuống đường phản đối. Phong trào du kích Tupamaros thì theo đuổi đường lối bạo động, chủ trương cướp tiền các cơ quan tài chánh cùng ngân hàng rồi phát lại cho người nghèo. Chính phủ liệt nhóm này vào thành phần khủng bố nên nhất quyết không thương lượng. Tupamaros càng gia tăng hoạt động như bắt cóc và thủ tiêu những công chức họ cho là tham nhũng.

Tình hình suy thoái khiến Tổng thống Jorge Pacheco phải tuyên bố thiết quân luật năm 1968, hạn chế quyền tự do dân sự. Năm 1972 Tổng thống Juan María Bordaberry kế nhiệm theo đuổi chính sách cứng rắn hơn, ra tay diệt các nhóm du kích thiên tả như Movimiento liberación nacional - Tupamaros (viết tắt: MLN-T) tức Phong trào giải phóng quốc gia Tupamaros. Bordaberry cũng ra lệnh giải tán quốc hội. Phe quân nhân từ đó nằm quyền hành pháp từ năm 1973 đến 1985; họ thẳng tay đàn áp các nhóm đối lập. Số tù nhân chính trị lên cao.

Đầu thập niên 1980 phe quân phiệt xúc tiến mở cuộc trưng cầu dân ý thông qua hiến pháp mới để dễ bề tham chính nhưng thất bại. Họ đành phải mở đường nhường quyền lại cho chính phủ dân sự và tổ chức tổng tuyển cử năm 1984.[20] Lãnh tụ Đảng Đỏ là Julio María Sanguinetti đắc cử tổng thống với nhiệm kỳ 1985-1990, chấm dứt thời kỳ quân phiệt. Thay vì tìm cách truy tố phe quân nhân, Sanguinetti chủ trương hòa giải, thông qua đạo luật ân xá "Ley de Amnistia", khép lại trang sử cũ để thống nhất lòng người.

Tái lập dân chủ (1984 – hiện tại)

[sửa | sửa mã nguồn]
Cựu tổng thống Uruguay Jorge Batlle và cựu tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush vào năm 2003

Sanguinetti xúc tiến cải cách kinh tế, tập trung vào việc thu hút thương mại và vốn nước ngoài. Kết quả đạt được một số thành công, triển vọng kinh tế sáng sủa hơn. Chính sách hòa giải của Sanguinetti tuy bị chống đối nhưng cuối cùng được thông qua.

Năm 1989 đảng Quốc gia Blanco của Luis Alberto Lacalle đắc cử, lãnh nhiệm kỳ 1990-1995. Lacalle theo đuổi chính sách mở rộng kinh tế, sáng lập Mecosur vào năm 1991 cho bốn nước: Uruguay, Argentina, Brasil và Paraguay. Lacalle còn muốn tư hữu hóa nhiều xí nghiệp quốc doanh để giảm nợ công nhưng đề nghị của ông bị triệt hạ trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1992.

Trong cuộc bầu cử năm 1994, cựu Tổng thống Sanguinetti lại ra tranh cử và thắng ghế tổng thống (1995-2000). Vì không đảng nào nắm đa số tại quốc hội, Đảng Quốc gia liên minh với Đảng Đỏ đứng ra lập chính phủ. Những chính sách then chốt cùng hợp tác là cởi mở kinh tế, hội nhập Mercosur và soạn hiến pháp mới; bản hiến pháp này ban hành năm 1996.

Đến kỳ tổng tuyển cử năm 1999 thì Uruguay áp dụng phương thức mới với các đảng tổ chức bầu cử sơ bộ cho mỗi chính đảng vào Tháng Tư, đến Tháng 10 thì bầu cử toàn quốc chọn tổng thống và dân biểu. Trước kia thì chỉ bầu hết một lượt. Người đắc cử hành pháp phải chiếm hơn 50% số phiếu. Vì không đạt được túc số, Uruguay phải tổ chức bầu cử vòng nhì. Đảng Quốc gia lại liên danh với Đảng Đỏ chọn Jorge Batlle, đánh bại Tabare Vázquez thuộc Mặt trận Rộng.

Hai Đảng Đỏ và Đảng Quốc gia tiếp tục liên danh tại quốc hội chống lại Mặt trận Rộng nhưng đến tháng 11 năm 2002, thì Đảng Quốc gia rút khỏi nội các trước hiện tình kinh tế suy thoái. Khủng hoảng kinh tế bên Brasil (1999) và Argentina (2001) kéo luôn Uruguay vào vòng bất trắc lại thêm nạn dịch lở mồm long móng gây thiệt hại nhiều cho ngành chăn nuôi. Tỷ số thất nhiệp lên ngót 20% trong khi lạm phát kéo giá sinh hoạt quá tầm tay người dân trung bình ở Uruguay, đẩy ngưỡng số dân nghèo lên 40%. Chính phủ đề nghị tiếp tục tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh như ngành dầu khí nhưng bị dân chúng phản đối.

Năm 2004, Tabaré Vázquez trúng cử tổng thống, trong khi Mặt trận Rộng giành được đa số tại cả hai viện Quốc hội.[27] Vázquez duy trì chính sách kinh tế chính thống. Khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi từ suy thoái và giá cả hàng hóa tăng vọt, ông tăng gấp ba đầu tư nước ngoài, giảm nghèo, giảm thất nghiệp, kéo giảm nợ công từ 79% GDP xuống 60% và kiểm soát lạm phát.[28] Năm 2009, José Mujica, một cựu lãnh đạo du kích cánh tả từng ngồi tù gần 15 năm vào thời kỳ quân quản, trúng cử tổng thống và Mặt trận Rộng thắng cử lần thứ hai.[29][30] Uruguay cho phép phá thai vào năm 2012[31]hôn nhân cùng giới,[32] cần sa vào năm 2013.[33]

Năm 2014, Tabaré Vázquez được tái cử nhiệm kỳ thứ hai.[34] Năm 2020, Luis Alberto Lacalle Pou thuộc Đảng Quốc gia trúng cử tổng thống, chấm dứt thời kỳ 15 năm cầm quyền của phe cánh tả.[35] Ngày 1 tháng 3 năm 2025, Yamandu Orsi thuộc Mặt trận Rộng nhậm chức tổng thống.[36]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Uruguay; bao gồm 19 tỉnh, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mở rộng

Lãnh thổ của Uruguay bao gồm 176.220 km² đất liền và 142.999 km 2 sông, hồ. So với các nước Nam Mỹ châu thì Uruguay là có diện tích nhỏ thứ nhì sau Suriname. Địa hình chủ yếu là bình nguyên đồng cỏ và một số đồi thấp. Điểm cao nhất là đỉnh Cerro Catedral đo được 514 m trong dải đồi Sierra Carapé.

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ phân loại khí hậu Köppen của Uruguay

Khí hậu Uruguay là khí hậu ôn đới, có đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Tuy nhiên, gió lạnh từ Nam cực chi phố mùa đông còn mùa hè thì luồng khí nóng từ miền nhiệt đới Brasil dồn về. Vì địa hình tương đối bằng phẳng, không có núi non ngăn cản nên thời tiết dễ thay đổi đột ngột.

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Tòa nhà Hành pháp là nơi làm việc chính thức của tổng thống
Cung điện Lập pháp là trụ sở Quốc hội, được khánh thành vào năm 1925.
Palacio Piria là trụ sở Tòa án tối cao

Uruguay là một nước cộng hòa tổng thống chế.[37] Hiến pháp Uruguay xác định nguyên tắc quyền lực phân lập.[37] Uruguay là một nhà nước đơn nhất: chính phủ trung ương quản lý nhà nước về tư pháp, giáo dục, y tế, an ninh, đối ngoại và quốc phòng.[37]

Tổng thống là nguyên thủ quốc gia kiêm người đứng đầu chính phủ. Tổng thống và Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quyền hành pháp. Hội đồng Bộ trưởng gồm 14 thành viên.[37] Tổng thống và phó tổng thống được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ năm năm và không được giữ chức vụ liên tiếp hai nhiệm kỳ. Mỗi đảng đề cử một liên danh ứng cử viên tổng thống thông qua bầu cử sơ bộ.[38]

Quốc hội là cơ quan lập pháp lưỡng viện, gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện gồm 99 hạ nghị sĩ đại diện cho 19 tỉnh, được bầu trực tiếp theo hệ thống đại diện tỷ lệ với nhiệm kỳ năm năm. Thượng viện gồm 31 thượng nghị sĩ, trong đó 30 được bầu trực tiếp theo hệ thống đại diện tỷ lệ với nhiệm kỳ năm năm. Phó tổng thống chủ trì các phiên họp Thượng viện và có quyền biểu quyết.[37] Bầu cử Quốc hội được tổ chức đồng thời với bầu cử tổng thống.[38]

Hệ thống tư pháp gồm Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm và các tòa án sơ thẩm. Thẩm phán Tòa án tối cao do Quốc hội bầu ra the đa số hai phần ba số nghị sĩ. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tòa án tối cao là mười năm, trừ phi thẩm phán đến độ tuổi nghỉ hưu là 70 tuổi.[39] Tòa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất và có quyền xem xét tính hợp hiến của luật.[40] Tòa án phúc thẩm gồm ba thẩm phán, các tòa án sơ thẩm gồm một thẩm phán. Tòa án tối cao bổ nhiệm thẩm phán tòa án cấp dưới.[41]

Hiến pháp hiện hành được ban hành vào năm 1967, lần sửa đổi, bổ sung gần đây nhất là vào năm 1997.[42][43] Phỏng theo Hiến pháp Thụy Sĩ, Hiến pháp Uruguay cho phép công dân trình dự luật trước Quốc hội và yêu cầu trưng cầu ý dân về việc bãi bỏ luật, sửa đổi hiến pháp.[44]

Phân cấp hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh của Uruguay.

Uruguay được chia thành 19 tỉnh. Các tỉnh đầu tiên được thành lập từ năm 1816 và gần đây nhất Flores được thành lập vào năm 1885.

Tỉnh Thủ phủ Diện tích Dân số (điều tra dân số năm 2023)[45]
km2 sq mi
Artigas Artigas 11.928 4.605 77,487
Canelones Canelones 4.536 1.751 608,956
Cerro Largo Melo 13.648 5.270 91,025
Colonia Colonia del Sacramento 6.106 2.358 135,797
Durazno Durazno 11.643 4.495 62,011
Flores Trinidad 5.144 1.986 26,271
Florida Florida 10.417 4.022 70,325
Lavalleja Minas 10.016 3.867 59,175
Maldonado Maldonado 4.793 1.851 212,951
Montevideo Montevideo 530 200 1,302,954
Paysandú Paysandú 13.922 5.375 121,843
Río Negro Fray Bentos 9.282 3.584 57,334
Rivera Rivera 9.370 3.620 109,300
Rocha Rocha 10.551 4.074 80,707
Salto Salto 14.163 5.468 136,197
San José San José de Mayo 4.992 1.927 119,714
Soriano Mercedes 9.008 3.478 83,685
Tacuarembó Tacuarembó 15.438 5.961 96,013
Treinta y Tres Treinta y Tres 9.529 3.679 47,706
Tổng cộng[chú thích 1] 175.016 67.574 3,499,451

Đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]
Trụ sở Mercosur tại Montevideo.

Bộ Ngoại giao thực hiện chính sách đối ngoại của Uruguay.[47] Uruguay có quan hệ chính trị, văn hóa truyền thống với các nước láng giềng và châu Âu. Đường lối đối ngoại của Uruguay dựa trên nguyên tắc đa phương, không can thiệp vào nội bộ lẫn nhau.[48] Uruguay là một thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, MercosurHiệp hội Hội nhập Mỹ Latinh.[49] Montevideo thường được so sánh với Bruxelles vì là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế như Mercosur và Hiệp hội Hội nhập Mỹ Latinh.[50]

Quân đội

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng Vũ trang Uruguay là lực lượng quân sự chính quy của Uruguay, gồm ba quân chủng Lục quân, Hải quân và Không quân. Tổng thống là tổng tư lệnh Lực lượng Vũ trang và chỉ đạo thông qua bộ trưởng quốc phòng.[51] Lục quân có khoảng 18.000 quân nhân,[52] Hải quân có 6.000 quân nhân, Không quân có 3.000 quân nhân.[51] Nhập ngũ là tình nguyện trong thời bình, nhưng chính phủ có quyền thực hiện nghĩa vụ quân sự trong trường hợp khẩn cấp.[53]

GDP bình quân đầu người của Uruguay từ năm 1900

Uruguay là nền kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại, đặc biệt là xuất khẩu nông sản, khiến cho trong nước dễ bị biến động giá cả hàng hóa.

Chăn nuôi bò, cừu trở thành ngành kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến để xuất khẩu (len, hàng dệt, thịt và ngành da thú). Ngành trồng trọt gồm có: ngũ cốc, mía, cây ăn quả.

Kinh tế gặp nhiều khó khăn do nợ nước ngoài chồng chất. Là nước thành viên của tổ chức Mercosur, Uruguay bị lấn át bởi hai nước láng giềng khổng lồ BrasilArgentina. Thâm hụt cán cân mậu dịch gia tăng.

Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm 9% GDP, nhưng nông phẩm chiếm hơn 50% hàng xuất khẩu. Uruguay đứng đầu Mỹ Latinh và thứ 6 thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Công nghiệp chủ yếu là chế biến nông sản (thịt, sản phẩm da thuộc, len...). Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ 20, Uruguay theo mô hình kinh tế tự do mới, giảm được lạm phátthâm hụt ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu. Uruguay là một trong những nước có điều kiện và chính sách lao động tự do nhất ở châu Mỹ.

Từ năm 1999, kinh tế Uruguay suy thoái, một nguyên nhân lớn là do tác động của việc phá giá tiền tệ của Brasil làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Uruguay và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Argentina. Tháng 6 năm 2002, chính phủ quyết định thả nổi đồng pê xô, đồng đô la Mỹ tăng giá 60% so với nội tệ, giúp cho hàng hoá xuất khẩu của Uruguay tăng sức cạnh tranh nhưng cũng gây ra đổ vỡ tín dụng, khủng hoảng hệ thống ngân hàng, làm giảm sức mua của người tiêu dùng và tăng lạm phát từ 4% (2001) lên tới 26% (2002).

Uruguay có môi trường đầu tư tốt, hệ thống pháp lý mạnh và thị trường tài chính mở cửa. Chiến lược của chính phủ hiện nay là kích thích tăng trưởng dựa trên việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước bạn hàng truyền thống trong khối Mercosur, EUBắc Mỹ. Với châu Á, Uruguay có quan hệ thương mại với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, MalaysiaIndonesia... Uruguay xuất hàng truyền thống như thịt bò, lúa gạo, len, , da thuộc và đồ da; nhập khẩu máy móc, hoá chất, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, quần áo...

Tính đến năm 2016, GDP của Uruguay đạt 54.374 USD, đứng thứ 79 thế giới và đứng thứ 14 khu vực Mỹ Latin.

Nông nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2010, ngành nông nghiệp định hướng xuất khẩu của Uruguay đóng góp 9,3% GDP và sử dụng 13% lực lượng lao động.[54] Số liệu thống kê chính thức từ Bộ Nông nghiệp và Chăn nuôi Uruguay cho biết chăn nuôi thịt và cừu ở Uruguay chiếm 59,6% diện tích đất. Tỷ lệ tăng thêm lên 82,4% khi chăn nuôi gia súc gắn với các hoạt động nông nghiệp khác như sữa, thức ăn gia súc và luân canh với các loại cây trồng như gạo.[55]

Dựa theo FAOSTAT, Uruguay là một trong những nước sản xuất nhiều nhất đậu tương (9th), len trơn (12th), thịt ngựa (14th), sáp ong (14th) và mộc qua (17th). Hầu hết trang trại (25,500 trong số 39,120) được quản lý quy mô gia đình; thịt bò và len là hoạt động chính và nguồn thu nhập chính cho 65% trong số đó, tiếp đến là nông nghiệp rau đạt 12%, chăn nuôi bò sữa đạt 11%, lợn đạt 2% và gia cầm cũng ở mức 2%.[55] Thịt bò là mặt hàng xuất khẩu chính của quốc gia, với tổng trị giá hơn 1 tỷ USD năm 2006.[55]

Giao thông vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]

Đường quốc lộ kết nối Montevideo và các thành phố lớn khác trong nước. Đường cao tốc chính dẫn tới những vùng biên giới. Những con đường nhỏ khác không được trải nhựa nối các trang trại và thị trấn nhỏ. Đường sá phát triển mạnh sau khi Khối thị trường chung Nam Mỹ được thành lập vào những năm 1990. Hầu hết hàng hóa vận chuyển trong nước được chuyên chở bằng đường bộ chứ không phải đường sắt.

Mạng lưới đường sắt hầu hết đều đã cũ (mua của Anh từ Chiến tranh thế giới thứ nhất) trừ một đường nhỏ chạy từ Montevideo đi San José de Mayo, qua các thành phố Las PiedrasCanelones.

Cảng biển chủ yếu ở Montevideo, Tàu thuyền di chuyển trong nội địa có các kích thước khác nhau, một dịch vụ tàu cánh ngầm kết nối Buenos Aires với MontevideoColonia del Sacramento qua Rio de Plata.

Một sân bay quốc tế nằm gần khu nghỉ mát bãi biển Carrasco một khoảng 21 km từ trung tâm thành phố Montevideo. Các hãng hàng không thuộc sở hữu của chính phủ, Primeras Líneas Uruguayas de Navegación Aérea (PLUNA), liên kết các điểm đến Montevideo với một số sân bay quốc tế.

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2018, dân số của Uruguay là 3.449.285 người, so với 2,239,000 vào năm 1950. Năm 2015, 21,4% dân số dưới 15 tuổi, 64,2% dân số trong độ tuổi 15-65, 14,4% dân số trên 65 tuổi.[56]

Dân tộc, chủng tộc

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần chủng tộc của Uruguay (điều tra dân số năm 2023)[57]

  Người da đen (10.4%)
  Khác/không có (6.3%)

Theo kết quả điều tra dân số năm 2023, 86,0% dân số Uruguay tự nhận là "người da trắng",[58] giảm từ 87,7% vào năm 2011.[59]

Hầu hết người Uruguay gốc Âu là hậu duệ của người di cư từ Tây Ban Nha[60] vào thế kỷ 19 và thế kỷ 20, cùng với Đức, Ý, Pháp và Anh.[61] Những thế hệ trước di cư từ Argentina.[61] 5% dân số là người gốc Phi.[61] Uruguay có một cộng đồng người Nhật lớn.[62] Thành phần dân tộc của Uruguay giống với các tỉnh láng giềng của Argentina và Nam Brasil.[63]

Đô thị

[sửa | sửa mã nguồn]
 
 
20 cities or towns lớn nhất tại Uruguay
"Uruguay". citypopulation.de. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.
Hạng Tỉnh Dân số Hạng Tỉnh Dân số
Montevideo
Montevideo
Salto
Salto
1 Montevideo Montevideo 1,304,687 11 Artigas Artigas 40,657 Ciudad de la Costa
Ciudad de la Costa
Paysandú
Paysandú
2 Salto Salto 104,011 12 Minas Lavalleja 38,446
3 Ciudad de la Costa Canelones 95,176 13 San José de Mayo San José 36,743
4 Paysandú Paysandú 76,412 14 Durazno Durazno 34,368
5 Las Piedras Canelones 71,258 15 Florida Florida 33,639
6 Rivera Rivera 64,465 16 Barros Blancos Canelones 31,650
7 Maldonado Maldonado 62,590 17 Ciudad del Plata San José 31,145
8 Tacuarembó Tacuarembó 54,755 18 San Carlos Maldonado 27,471
9 Melo Cerro Largo 51,830 19 Colonia del Sacramento Colonia 26,231
10 Mercedes Soriano 41,974 20 Pando Canelones 25,947

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Tây Ban Nhangôn ngữ quốc gia trên thực tế của Uruguay.[64]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn giáo tại Uruguay (2010)[65][66]
Tôn giáo Tỷ lệ
Kitô giáo
  
57.9%
Tín ngưỡng dân gian
  
0.8%
Do Thái giáo
  
0.3%
Khác
  
0.3%
Không tôn giáo
  
40.7%
Vương cung thánh đường Nhà thờ Florida ở Montevideo, tức nhà thờ chính tòa tổng giáo phận Montevideo

Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất của Uruguay. Uruguay không có quốc giáo và đảm bảo quyền tự do tôn giáo.[67] Theo một cuộc khảo sát vào năm 2008, 45,7–81,4%[68] dân số theo Công giáo; 9,0% theo hệ phái Kitô giáo khác, 0,6% theo thuyết vật linh hoặc Umbanda (một tôn giáo Brasil gốc Phi), và 0,4% theo Do Thái giáo. 30,1% tự nhận tin vào thần thánh, nhưng không theo một tôn giáo nào, trong khi 14% là vô thần hoặc theo thuyết bất khả tri.[69] Montevideo có một cộng đồng người Armenia lớn, chủ yếu theo Giáo hội Tông truyền Armenia.[70]

Giới quan sát chính trị xem Uruguay quốc gia thế tục nhất ở châu Mỹ.[71] Uruguay thế tục hóa bắt đầu với vai trò tương đối nhỏ của nhà thờ trong thời kỳ thuộc địa, so với các bộ phận khác của đế quốc Tây Ban Nha. Sau khi độc lập, ý tưởng chống đối ảnh hưởng của tôn giáo đối với chính quyền lan rộng tới Uruguay, đặc biệt là từ Pháp, tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng của nhà thờ đối với chính phủ.[72] Năm 1837, hôn nhân dân sự đã được công nhận và năm 1861 nhà nước tiếp quản các hoạt động của các nghĩa trang nhân dân vốn do nhà thờ đảm trách. Trong năm 1907, ly hôn đã được hợp pháp hóa và năm 1909, tất cả các chương trình giáo dục giảng dạy tôn giáo đã bị cấm tại tất cả các trường công lập nhà nước. Dưới ảnh hưởng của các cải cách tự do, do nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez (1903-1911) đề xướng, một bản Hiến pháp mới đã được ban hành năm 1997 đã tách hoàn toàn ảnh hưởng của nhà thờ đối với nhà nước.[73]

Có khoảng 2,3 triệu người Công giáo Rôma trong cả nước. Có 9 giáo phận trực thuộc tổng giáo phận Montevideo; Chủ tịch Hội đồng Giám mục Uruguay hiện nay lag Tổng giám mục Nicolas Cotugno Fanizzi, người được bổ nhiệm vào tháng 12 năm 1998. Các vị thánh bảo trợ của Uruguay là Maria, hiện được tôn kính tại Vương cung thánh đường Nhà thờ Florida.[74]

Hồi giáo ở Uruguay ước tính có từ 300 đến 400 người, đại diện cho 0,01 phần trăm dân số. Có hai trung tâm Hồi giáo, tại Montevideo.[75]

Hiện nay, có từ 20.000-25.000 người Do Thái giáo sống ở Uruguay, với 95% cư trú tại Montevideo. Có một cộng đồng nhỏ ở Paysandú. Khoảng 75% trong số đó là nhánh Do Thái giáo Ashkenazi và 11% thuộc nhánh Sephardi. Đến năm 2003, có 20 giáo đường Do Thái, nhưng chỉ có sáu trong số đó tổ chức các buổi lễ Shabbat hàng tuần.

Đức tin Bahá'í được truyền bá đến Uruguay bởi Abdu'l-Baha, một trong những người đứng đầu tôn giáo này trong năm 1916.[76] Hội đồng tin thần Bahá'í địa phương đầu tiên tại Montevideo được bầu vào năm 1942. Năm 1961, Hội đồng tinh thần Bahá'í Uruguay được thiết lập và tới năm 1963 đã có ba Hội đồng tinh thần Bahá'í địa phương. Năm 2001 có khoảng 4.000 tín đồ Baha'is tại Uruguay và đến năm 2005, đã tăng lên 7.300 người.[77]

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Khoa Y Đại học Cộng hòa, được thành lập vào năm 1849

Giáo dục tại Uruguay là thế tục, miễn phí và bắt buộc trong 14 năm, bắt đầu từ 4 tuổi.[78][79] Hệ thống giáo dục được chia thành sáu bậc: mầm non (3–5 tuổi), tiểu học (6–11 tuổi), trung học cơ sở (12–14 tuổi), trung học phổ thông (15–17 tuổi), đại học (18 tuổi trở lên) và giáo dục sau đại học.[79] Giáo dục công lập do ba cơ quan quản lý: Bộ Giáo dục và Văn hóa quyết định chính sách quốc gia về giáo dục; Cục Quản lý giáo dục công lập nhà nước quản lý bậc mầm non đến trung học; và Đại học Cộng hòa là trường đại học lâu đời nhất, lớn nhất.[79]

Nghệ thuật thị giác

[sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học

[sửa | sửa mã nguồn]
José Enrique Rodó

José Enrique Rodó (1871 - 1917) nhà văn thuộc chủ nghĩa hiện đại, được coi là biểu tượng văn học nổi bật nhất của Uruguay[80]. Tác phẩm Ariel (1900) của ông đặt vấn đề gìn giữ các giá trị tâm linh trong khi theo đuổi vật chất và tiến bộ kĩ thuật.[80]

Truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]
Sân vận động Centenario
Cổ động viên Uruguay tại FIFA World Cup 2018 tại Nga

Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Uruguay. Trận bóng đá quốc tế đầu tiên được tổ chức ngoài đảo Anh là giữa UruguayArgentina tại Montevideo tháng Bảy năm 1902[81] Uruguay tham dự Thế vận hội từ năm 1924 và đoạt huy chương Vàng Bóng đá tại hai kì Thế vận hội liên tiếp 1924 tại Paris[82]1928 tại Amsterdam.[83]

Đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay từng vô địch FIFA World Cup 2 lần: lần thứ nhất tại sân nhà và là kì World Cup đầu tiên năm 1930 và lần thứ hai đánh bại Brazil tại trận chung kết ngay tại sân của họ năm 1950.[84] Số lượng chức vô địch của Uruguay tại Copa América lớn hơn bất kì nước nào khác: Chức vô địch năm 2011 đánh giấu lần thứ 15 đăng quang của họ trên đấu trường bóng đá châu lục. Uruguay còn là quốc gia ít dân nhất từng vô địch World Cup.[84] Mặc dầu Uruguay đạt được những thành công ban đầu, họ bỏ lỡ 3 trong 4 kì World Cup từ 1994 đến 2006.[84] Uruguay có màn trình diễn đáng được biểu dương ở FIFA World Cup 2010 khi họ vào tới vòng bán kết sau 40 năm chờ đợi. Trong giải đấu này, cầu thủ Diego Forlán được trao giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải.[85]

  1. ^ Tiếng Tây Ban Nha chưa bao giờ được quy định là ngôn ngữ chính thức trong hiến pháp hoặc bất cứ văn bản pháp luật nào, nhưng trên thực tế được chính phủ, xã hội sử dụng như thể là ngôn ngữ chính thức.
  2. ^ Được chính thức công nhận từ năm 2001.[3][4]
  1. ^ Self-identified primary ethnic-racial ancestry. Total adds up to more than 100% as people were allowed to choose more than one ancestral racial group
  1. ^ Không bao gồm diện tích 1.199 km2 (463 dặm vuông Anh) của hồ chứa nước Rio Negro.[46]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Crow, John A. (1992). The Epic of Latin America (ấn bản thứ 4). Berkeley: University of California Press. tr. 457. ISBN 978-0-520-07723-2. In the meantime, while the crowd assembled in the plaza continued to shout its demands at the cabildo, the sun suddenly broke through the overhanging clouds and clothed the scene in brilliant light. The people looked upward with one accord and took it as a favorable omen for their cause. This was the origin of the ″sun of May″ which has appeared in the center of the Argentine flag and on the Argentine coat of arms ever since.
  2. ^ Kopka, Deborah (2011). Central & South America. Dayton, OH: Lorenz Educational Press. tr. 5. ISBN 978-1-4291-2251-1. The sun's features are those of Inti, the Incan sun god. The sun commemorates the appearance of the Sun through cloudy skies on May 25, 1810, during the first mass demonstration in favor of independence.
  3. ^ IMPO. "Personas con Discapacidad. Lengua de Señas Uruguaya" [Disabled Persons. Uruguayan Sign Language – Law No. 17378]. Ley số N° 17378 Error: the date or year parameters are either empty or in an invalid format, please use a valid year for year, and use DMY, MDY, MY, or Y date formats for date (bằng tiếng Tây Ban Nha). El Senado y la Cámara Representantes de República Oriental del Uruguay reunidos en Asamblea General. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2022.
  4. ^ Meyers, Stephen; Lockwood, Elizabeth (ngày 6 tháng 12 năm 2014). "The Tale of Two Civil Societies: Comparing disability rights movements in Nicaragua and Uruguay". Disability Studies Quarterly (bằng tiếng Anh). 34 (4). doi:10.18061/dsq.v34i4.3845. ISSN 2159-8371. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2022.
  5. ^ "Ascendencia étnico-racial principal, por categoría, según departamento - Censo 2023". 2024 (bằng tiếng Tây Ban Nha). Instituto Nacional de Estadística. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2025.
  6. ^ "Encuesta Continua de Hogares (ECH) – Instituto Nacional de Estadística". Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2022.
  7. ^ "Censo Nacional 2023 contabilizó 3.499.451 habitantes en Uruguay". Uruguay Presidencia (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2024.
  8. ^ "Uruguay". The World Factbook (ấn bản thứ 2025). Cơ quan Tình báo Trung ương. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2023. (Archived 2011 edition.)
  9. ^ a b c d "Report for Selected Countries and Subjects: April 2024". imf.org. Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
  10. ^ "GINI index". World Bank. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  11. ^ "Human Development Report 2025" (PDF) (bằng tiếng Anh). Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc. ngày 6 tháng 5 năm 2025. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2025.
  12. ^ Wells, John C. (1990). Longman pronunciation dictionary. Harlow, England: Longman. tr. 755. ISBN 0-582-05383-8. entry "Uruguay"
  13. ^ "Transparency.org". Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  14. ^ United Nations, EGOVKB. "Data Center". Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2014.
  15. ^ a b "Uruguay Rankings" (PDF). Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2017.
  16. ^ "From 2005 to 2011" (PDF).
  17. ^ MacDonald, Fiona. "Uruguay has shifted to getting 95% of its electricity from renewables in less than 10 years". ScienceAlert. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2016.
  18. ^ "Giải vô địch túc cầu thế giới..."
  19. ^ a b c d e f "THE STRUGGLE FOR INDEPENDENCE, 1811–30 – Uruguay". Library of Congress Country Studies. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
  20. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên dept-state
  21. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên loc-5
  22. ^ a b "The Great War, 1843–52 – Uruguay". Library of Congress Country Studies. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
  23. ^ Rex A. Hudson; Sandra W. Meditz, biên tập (1990). "Caudillos and Political Stability (Chapter 9)". Uruguay: A Country Study. Washington DC: Library of Congress Country Studies. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
  24. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Lewis
  25. ^ a b Rex A. Hudson; Sandra W. Meditz, biên tập (1990). "Modern Uruguay, 1875–1903 (Chapter 10)". Uruguay: A Country Study. Washington DC: Library of Congress Country Studies. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
  26. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên cs
  27. ^ Rohter, Larry (tháng 11 năm 2004). "Uruguay's Left Makes History by Winning Presidential Vote". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  28. ^ "The mystery behind Mujica's mask". The Economist. ngày 22 tháng 10 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011.
  29. ^ Barrionuevo, Alexei (ngày 29 tháng 11 năm 2009). "Leftist Wins Uruguay Presidential Vote". The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  30. ^ Piette, Candace (ngày 30 tháng 11 năm 2009). "Uruguay elects José Mujica as president, polls show". BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011.
  31. ^ "Uruguay legalises abortion". BBC News. ngày 17 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  32. ^ "Same-sex marriage bill comes into force in Uruguay". BBC News. ngày 5 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  33. ^ "Uruguay: The world's marijuana pioneer". BBC News. ngày 3 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  34. ^ "Tabare Vazquez wins Uruguay's run-off election". BBC News. tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  35. ^ "Uruguay's new center-right president sworn in". tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  36. ^ "Uruguay's new leftist president takes office". Voice of America (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 3 năm 2025.
  37. ^ a b c d e "Business Guide" (PDF). Uruguay XXI. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  38. ^ a b Korzeniak, José (2001). Primer curso de Derecho Público (bằng tiếng Tây Ban Nha) (ấn bản thứ 3). Montevideo: Fundación de Cultura Universitaria. tr. 443–450. ISBN 9974203775.
  39. ^ "Uruguay's Constitution of 1966, Reinstated in 1985, with Amendments through 2004" (PDF).
  40. ^ "Ley N° 15750". www.impo.com.uy. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2024.
  41. ^ "Juzgados y tribunales". www.poderjudicial.gub.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2025. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2025.
  42. ^ Uruguay: The Uruguayan Constitution (bằng tiếng Anh), lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2017, truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2017 – qua www.wipo.int
  43. ^ "Uruguay's Constitution of 1966, Reinstated in 1985, with Amendments through 2004" (PDF). constituteproject.org. ngày 28 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2017.
  44. ^ "Democracia directa en Uruguay". El Observador (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2025.
  45. ^ "Censos 2011 – Instituto Nacional de Estadistica". Instituto Nacional de Estadística. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2012.
  46. ^ Unidades Geoestadísticas (UGeo) – Uruguay; División Servicios Técnicos, Unidad de Cartografía (2011), "Definiciones geoestadísticas utilizadas en el del Censo de 2004 Fase I; y del Censo de 2011", Mapas de Unidades Geoestadísticas 2004 (bằng tiếng Tây Ban Nha), Instituto Nacional de Estadística, tr. 2, lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2013. (Direct PDF file download)
  47. ^ "Cometidos". Ministerio de Relaciones Exteriores (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  48. ^ Bizzozero Revelez, Lincoln (2010). Uruguay y los procesos de integración regional: Trayectoria, cambios y debates [Uruguay and regional integration processes: Trajectory, changes and debates] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Porto Alegre: Civitas - Revista de Ciências Sociais. tr. 105. ISSN 1519-6089.
  49. ^ "Políticas e historia". Embajada de Estados Unidos en Uruguay (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  50. ^ "Google Earth Montevideo Map". One World – Nations Online Project. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2015.
  51. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên dept-state3
  52. ^ "Para Jefe del Ejército, número de efectivos está en "nivel crítico"" [For the Army Chief, the number of personnel is at a "critical level"]. Diario El País (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  53. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CIA2
  54. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CIA
  55. ^ a b c "Uruguay has 3.8 cattle per capita, highest in the world". MercoPress. ngày 30 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011.
  56. ^ "World Population Prospects - Population Division - United Nations". esa.un.org.
  57. ^ "Ascendencia étnico-racial principal, por categoría, según departamento - Censo 2023" [Main ethnic-racial ancestry, by category, according to department - 2023 Census]. 2024 (bằng tiếng Tây Ban Nha). Instituto Nacional de Estadística. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2025.
  58. ^ "Ascendencia étnico-racial principal, por categoría, según departamento - Censo 2023" [Main ethnic-racial ancestry, by category, according to department - 2023 Census]. 2024 (bằng tiếng Tây Ban Nha). Instituto Nacional de Estadística. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2025.
  59. ^ "ATLAS SOCIODEMOGRÁFICO Y DE LA DEL URUGUAY" (PDF). ine.gub.uy. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2025.
  60. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên dept-state4
  61. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên britannica2
  62. ^ Genta Dorado, Gustavo (tháng 3 năm 1993). La Colectividad Japonesa en Uruguay (bằng tiếng Tây Ban Nha). Montevideo: Ediciones de la Crítica. tr. 43–46. OCLC 30613716.
  63. ^ Lins, T. C.; Vieira, R. G.; Abreu, B. S.; Grattapaglia, D.; Pereira, R. W. (March–April 2009). "Genetic composition of Brazilian population samples based on a set of twenty-eight ancestry informative SNPs". American Journal of Human Biology. 22 (2): 187–192. doi:10.1002/ajhb.20976. PMID 19639555. S2CID 205301927. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  64. ^ "Proponen establecer por ley que el idioma oficial de Uruguay es el español" [They propose establishing by law that the official language of Uruguay is Spanish]. Radio Sarandí 690 AM (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 29 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2023.
  65. ^ "Uruguay – Pew-Templeton Global Religious Futures Project". Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2018.
  66. ^ "Religious Composition by Country, 2010–2050". ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  67. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên dept-state2
  68. ^ "Religious Affiliation (2006)". Encyclopædia Britannica. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
  69. ^ "Encuesta Continua de Hogares 2008 – Religion". Instituto Nacional de Estadística. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010.
  70. ^ Zenian, David (ngày 1 tháng 1 năm 1992). "The Airwaves of Montevideo: An Armenian Community Forum". AGBU News. Armenian General Benevolent Union. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010.
  71. ^ "University of Minnesota, Morris". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  72. ^ "The Uruguay Government is fascinating". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  73. ^ "Uruguay". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  74. ^ "Montevideo (Archdiocese) [Catholic". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  75. ^ "Uruguay". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  76. ^ "Bahá'í Reference Library". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  77. ^ "Uruguay". Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  78. ^ "Invest in Uruguay — Unidad de Apoyo al Sector Privado" (PDF). tr. 24. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  79. ^ a b c Uruguay, Secondary and technical education and teacher training support program Lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2021 tại Wayback Machine Inter-American Development Bank (pp. 7–8)
  80. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên britannica
  81. ^ Pelayes, Héctor Darío (ngày 24 tháng 9 năm 2010). "ARGENTINA-URUGUAY Matches 1902–2009". RSSSF. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2011.
  82. ^ "Paris, 1924". FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2011.
  83. ^ "Amsterdam, 1928". FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2011.
  84. ^ a b c The smallest country to win the World Cup have big ambitions again, Give Me Football
  85. ^ "World Cup 2010: Diego Forlan collects Golden Ball award". BBC Sport. ngày 11 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Uruguay – Website chính thức của Uruguay
  • Chính phủ – Website chính thức của Chính phủ Uruguay
  • Tổng thống – Website chính thức của Tổng thống Uruguay
  • Quốc hội – Website chính thức của Quốc hội Uruguay
  • Thượng viện – Website chính thức của Thượng viện Uruguay
  • Hạ viện – Website chính thức của Hạ viện Uruguay
  • Thống kê – Website chính thức của Viện Thống kê Quốc gia

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Visit Uruguay – Cổng thông tin điện tử du lịch chính thức Uruguay

Bản đồ

[sửa | sửa mã nguồn]