RPG-7
| RPG-7 | |
|---|---|
Ống phóng RPG-7 (trên) và đầu đạn huấn luyện PG-7G đã lắp liều phóng (dưới) | |
| Loại | Súng phóng lựu chống tăng vác vai[1] |
| Nơi chế tạo | |
| Lược sử hoạt động | |
| Phục vụ | 1961 - nay |
| Sử dụng bởi | Xem Các quốc gia sử dụng |
| Trận | Xem Các chiến trường |
| Lược sử chế tạo | |
| Người thiết kế | Bazalt |
| Năm thiết kế | 1958 |
| Nhà sản xuất | Bazalt and nhà máy Degtyarev (Liên bang Nga) |
| Giá thành | US$350[2] |
| Giai đoạn sản xuất | 1958 – nay |
| Số lượng chế tạo | 9,000,000+[3] |
| Các biến thể |
|
| Thông số | |
| Khối lượng | 6.3 kg (13.9 lb) (không có ống ngắm) 7 kg (15.4 lb) (khi gắn ống ngắm PGO-7) |
| Chiều dài | 950 mm (37,4 in) |
| Đạn | 85 mm (3,3 in) |
| Cỡ đạn | 40 mm (1,6 in) |
| Sơ tốc đầu nòng | 115 m/s (380 ft/s) (vừa rời nòng) 300 m/s (980 ft/s) (khi bay ổn định) |
| Tầm bắn hiệu quả | 330 m (1.080 ft) (PG-7V) |
| Tầm bắn xa nhất | 700 m (2.300 ft) (OG-7V) (tự hủy sau khi bay ~920 m (3.020 ft)) |
| Chế độ nạp | Thủ công từng viên |
| Ngắm bắn | PGO-7 (2.7×), UP-7V và kính nhìn đêm 1PN51/1PN58 Kính ngắm điểm đỏ |
RPG-7 là một loại súng chống tăng không giật dùng cá nhân, còn được gọi tại Việt Nam là B41. Gọi là B41 vì loại súng này là đời sau của B40 (hay bazooka 40 mm), dù cho nó vẫn có đường kính là 40 mm.
Trong tiếng Nga súng này có tên là ручной противотанковый гранатомёт, viết tắt là RPG-7 (РПГ-7), có nghĩa là "súng phóng lựu chống tăng xách tay" [5] (nhưng một số người lại cho đó là viết tắt của реактивный противотанковый гранатомёт, tức "súng phóng lựu chống tăng phản lực"). Thuật ngữ quân sự trong tiếng Anh là anti tank rocket launcher (có nghĩa là "súng phóng tên lửa chống tăng"), tuy nhiên, RPG-2 dùng kỹ thuật tên lửa rất ít, chỉ đến RPG-7 thì kỹ thuật này mới đóng vai trò lớn trong đẩy đạn.[6]
RPG-7 lần đầu tiên được chuyển giao cho Quân đội Liên Xô vào năm 1961 và biên chế cho cấp tiểu đội. RPG-7 thay thế RPG-2 vốn không còn đủ sức cho các dòng xe tăng mới có giáp ngày càng dày. RPG-7 rõ ràng là vượt trội so với thiết kế RPG-4 tầm trung trong quá trình thử nghiệm. Mẫu hiện tại do Liên bang Nga sản xuất là RPG-7V2, có khả năng bắn đạn chống tăng nổ cao (HEAT) tiêu chuẩn và kép, đầu đạn nổ/phân mảnh và đầu đạn nhiệt áp, lắp được thiết bị ngắm UP-7V song song với ống ngắm quang học 2,7 × PGO-7 tiêu chuẩn để sử dụng đạn tầm xa. RPG-7D3 là phiên bản dành riêng cho lính dù. Cả RPG-7V2 và RPG-7D3 đều được Lực lượng Lục quân Nga sử dụng từ năm 2001.
Ra đời
[sửa | sửa mã nguồn]
RPG-7 được thiết kế năm 1958, nó lần đầu được sử dụng trong thực chiến tại Chiến tranh Việt Nam từ năm 1967. Cuối thập niên 1960, phiên bản cải tiến được Liên Xô chế tạo, gọi là RPG-7V. So với phiên bản đầu tiên, RPG-7V có ống ngắm quang học được nâng cấp với tên gọi là PGO-7V. RPG-7V ban đầu trang bị cho tổ chiến đấu AT-3 của Liên Xô. Dễ chế tạo, uy lực mạnh và độ tin cậy cao, suốt thời thập niên 1960 tới nay, RPG-7 vẫn là khẩu súng chống tăng cá nhân thành công nhất trên thế giới.
Các loại đạn mới tiếp tục được tạo ra dành cho RPG-7. Phiên bản đạn đầu tiên là PG-7V chế tạo năm 1961, nặng 2,2 kg sức xuyên 260mm thép cán đồng nhất. Loại đạn cải tiến là PG-7VM được chế tạo năm 1969, nặng 2 kg xuyên được 300mm thép RHA. PG-7M có hình dạng thon hơn (đường kính 70mm so với 85mm của PG-7V), động cơ tên lửa rắn và liều phóng được cải tiến đã làm giảm 1,5 lần hiện tượng lệch gió, độ chính xác cũng được cải thiện 20-25% so với đạn PG-7V[7]
Đạn PG-7VL được phát triển vào những năm 1970 để đáp trả việc NATO gia cố lớp giáp bảo vệ xe tăng, loại đạn này nặng 2,6 kg xuyên được 500mm thép cán đồng nhất, nhưng do trọng lượng đạn tăng nên tầm ngắm giảm từ 500 xuống còn 300 mét. Đối với xe tăng hiện đại có giáp phản ứng nổ, Liên Xô đã phát triển loại đạn 2 tầng PG-7VR vào những năm 1980. PG-7VR có hai "đầu đạn": 64mm và 105mm, đầu đạn thứ nhất phát nổ để phá các khối giáp phản ứng nổ, đầu đạn thứ 2 sẽ xuyên vào giáp chính của xe tăng. PG-7VR xuyên được 750mm thép RHA (nếu không có giáp phản ứng nổ) hoặc 600mm thép cán đồng nhất (nếu có giáp phản ứng nổ). Tuy nhiên, trọng lượng đạn tăng lên 4,5 kg, tầm ngắm của đạn chỉ còn được 200 mét.[8]
Trung bình mỗi khẩu RPG-7 đời đầu có thể bắn được 250 phát trước khi phải thay nòng (do nòng bị mòn khiến độ chính xác giảm đi). Các phiên bản mới hơn thì có tuổi thọ nòng được nâng cao hơn, các phiên bản mới nhất như RPG-7V2 có độ bền đạt tới 1.000 phát bắn (do tiến bộ về công nghệ luyện kim).
Uy lực
[sửa | sửa mã nguồn]Đạn PG-7 có thể bắn xuyên tấm thép dày 260mm (theo cách tính của Liên Xô) hoặc 300mm (theo cách tính của Mỹ). Cho đến cuối thập niên 1970 thì không một xe tăng nào của NATO có vỏ giáp chống lại được nó, kể cả các xe tăng hạng nặng. Ở thập niên 1960, loại xe tăng duy nhất có một vài điểm chống đỡ được RPG-7 là các xe tăng hạng nặng IS-3 đến IS-10 của Liên Xô, sau này hậu duệ của chúng là xe tăng chiến đấu chủ lực T-64.
Cuộc chiến đầu tiên mà RPG-7 được sử dụng với quy mô lớn là chiến tranh Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1967, các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu sử dụng RPG-7 trong chiến đấu và chúng phát huy hiệu quả rất tốt. So với súng RPG-2 (Việt Nam gọi là B-40) thì RPG-7 có tầm bắn và sức xuyên phá đều cao hơn gần gấp đôi, xe tăng chủ lực M48 Patton của Mỹ có giáp trước chịu được đạn B-40, nhưng không thể chịu được đạn RPG-7. Tuy nhiên do số súng RPG-7 không đủ để thay thế hết B-40 nên cho tới hết chiến tranh thì quân đội Việt Nam vẫn dùng song song cả 2 loại súng. Đã có vài nghìn xe tăng - thiết giáp, hàng vạn xe cơ giới các loại của Mỹ bị phá huỷ trong cuộc chiến, một tỷ lệ lớn là do súng chống tăng B-40 và B-41.
Các xe tăng phổ biến của Mỹ thập niên 2000 như M1 Abrams đỡ được đạn B41 thường (PG-7V) ở trên mặt trước (là nơi giáp dày nhất), nhưng không chịu được đạn hạng nặng PG-7VR cỡ 105mm. Còn hai sườn và phía sau thì đạn RPG-7 đời cũ cũng làm thủng. Trước đây, Đức thiết kế cho Mỹ xe MBT-70 khá tốt, với các thiết bị bố trí khéo léo thành giáp hộp chống đỡ RPG-7 khá hiệu quả. Nhưng giá thành đắt và Mỹ thiết kế lại thành M1, thay giáp đúc bằng giáp hàn và bỏ các giáp hộp đi. Phần chống đỡ RPG-7 khá tốt của M1 là xích với giáp diềm dày 70mm. Tuy nhiên khi bị RPG-7 bắn trúng xích, mặc dù xe không bị cháy ngay nhưng xích sẽ đứt, xe sẽ phải đứng yên và rất dễ tổn thương.
Leopard 2 các phiên bản A4 trở lên đều có các tấm giáp phức hợp phía trước rất tốt, xe tăng T-64, T-72, T-80, T-90 còn được trang bị giáp phản ứng nổ (ERA) để vô hiệu hóa đạn RPG-7. Tuy nhiên, cũng còn nhiều điểm sơ hở mà RPG-7 có thể công phá, ví dụ hai sườn sau tháp pháo, sau xe...
Xe tăng T-64 của Liên Xô là mẫu đầu tiên áp dụng giáp phức hợp nhiều lớp, với kết cấu thép xen kẽ vật liệu composite đặc biệt, sợi thủy tinh và thép lấp đầy khoảng trống. Nhờ thiết kế này, dù chỉ nặng 37 tấn, T-64 vẫn có khả năng bảo vệ gần gấp đôi xe tăng M48 Patton nặng 49 tấn. Trên cơ sở đó, T-72 tiếp tục được cải tiến với giáp dày, góc nghiêng tốt, đồng thời bổ sung các hệ thống bảo vệ hiện đại như ERA (giáp phản ứng nổ) và APS (hệ thống phòng thủ chủ động), giúp tăng khả năng chống đỡ trước đạn chống tăng RPG-7. Thực tiễn chiến tranh Afghanistan và đặc biệt là Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất đã chứng minh hiệu quả của thiết kế này: mặc dù quân Nga tổn thất 62 xe tăng các loại, số lượng xe T-72 và T-80 bị phá hủy rất ít, trong đó chỉ có một chiếc T-80 trang bị ERA bị loại khỏi vòng chiến sau khi trúng liên tiếp nhiều phát đạn khiến toàn bộ lớp ERA bị phá hỏng.
Để chống lại xe tăng hiện đại có trang bị ERA, RPG-7 cũng có những phiên bản đạn hạng nặng 105mm tăng sức xuyên (đạn PG-7VR mang đầu nổ nối tiếp để phá giáp ERA, sức xuyên đạt tới 750mm thép), nhưng bù lại tầm bắn hiệu quả tụt xuống do đạn nặng hơn.
Ở cự ly xa, đạn RPG-7 bị lệch gió khá lớn. Một nghiên cứu của Trung tâm Đào tạo và Học thuyết chỉ huy quân sự của Quân đội Mĩ (TRADOC) vào năm 1975 đã cho thấy, ở cự li 500m và có gió thổi ngang, khi bắn vào một bảng có kích thước 2,28 x 4,57 m bằng súng RPG-7 có xác suất trúng chỉ khoảng 4%, ở cự ly 200 mét thì xác suất trúng đích là 49%.[9][10][11] Do đó, để đảm bảo xác suất trúng đích cao thì xạ thủ cần có kinh nghiệm ước lượng độ lệch gió hoặc tiếp cận càng gần mục tiêu càng tốt.
Một số cách biên chế RPG-7
[sửa | sửa mã nguồn]
BMP-1 có các cửa nóc giúp có thể sử dụng RPG-7 hoặc MANPADS. 1 tiểu đội bộ binh cơ giới của Liên Xô được trang bị 1 khẩu RPG-7 theo tiêu chuẩn.
Thông thường RPG-7 được Liên Xô dùng ở cấp trung đội. Mỗi tiểu đội bộ binh Liên Xô có 9 người, với tiểu đội bộ binh cơ giới thì có thể có đến 11 người. Liên Xô và các nước Đông Âu trong huấn luyện còn có kiểu tổ chức tổ 3 người, mỗi người mang 1 súng AK, 1 người mang thêm đạn cho RPG-7 và 1 người mang thêm một súng, tạo thành tổ săn tăng. Mỗi tiểu đội bộ binh Việt Nam thông thường mang 3 súng mạnh, gồm trung liên và RPG-7. Trong Chiến tranh Iran-Iraq, tiểu đội Iran 11 người mang 2 RPG-7. Trong Chiến tranh Afghanistan, tiểu đội Mujahideen 10 - 12 người mang 1 khẩu (năm 1983) và tăng lên 2 - 3 khẩu (năm 1987). Trong Chiến tranh Việt Nam có những trận đánh với tổ 3 người mang 2 khẩu RPG-7 và AK-47, bám sát đội hình xe địch, có những trận đánh cả tiểu đoàn biên chế như vậy, tạo thành hỏa lực chống tăng đáng sợ. Mujahideen thành lập những trung đội RPG-7 mang đến 15 khẩu (từ 50% đến 80% lính mang RPG-7), tạo thành đội săn tăng.
Việt Nam
[sửa | sửa mã nguồn]Trang bị thông thường nhất của RPG-7 là tổ chiến đấu 2 người. Tổ chiến đấu RPG-7 2 người này mang mỗi người 1 ba lô đạn RPG-7 3 viên và 3 liều phóng, xạ thủ chính mang RPG-7, xạ thủ phụ mang AK. Tộng cộng tổ mang được 6 viên RPG-7, xạ thủ phụ cảnh giới cho xạ thủ chính diệt tăng, luôn đi bên cạnh, khi chiến đấu ở bên trái ngang xạ thủ. Ở Việt Nam, tổ này nằm trong tiểu đội, cùng với tiểu đội trưởng tạo thành tổ 3 người hỏa lực mạnh. Trong các trận đánh tiến công lớn, có thể tổ chức như Liên Xô, dồn trung liên và RPG-7 về thành một tổ do trung đội trưởng chỉ huy. Xạ thủ phụ còn có nhiệm vụ giúp xạ thủ nạp đạn, tăng tốc độ bắn đến 6 phát/phút.
Tuy nhiên, với cách biên chế tiểu đội hỏa lực mới của Quân đội nhân dân Việt Nam, có tới 2 xạ thủ trang bị RPG-7, cùng với đó 2 là người hỗ trợ, mỗi người mang 4 đạn. Điều này giúp cho mỗi tiểu đội bộ binh có lên tới 16 quả đạn chống tăng.
Trung Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Quân đội Trung Quốc thập niên 1960 - 1970 tổ chức những tiểu đội đặc biệt có hỏa lực chống tăng mạnh. Tiểu đội kiểu này có tổ hỏa lực 3 người dùng 3 khẩu Type-69-1 (tiểu đội thông thường chỉ có 1 khẩu), mang 12 đạn.
Biên chế tên lửa chống tăng có điều khiển 9M14 Malyutka
[sửa | sửa mã nguồn]Ngoài bộ binh, súng là một bộ phận của tổ chiến đấu dùng tên lửa chống tăng có điều khiển "Bé con" 9M14 Malyutka "Малютка" (tên phương Tây AT-3 Sagger, tên Việt Nam là B-72). Loại tên lửa này không thể chiến đấu ở tầm gần hơn 500 m, nên RPG-7 sẽ bù vào đó. Tổ chiến đấu "Bé con" tạo ra 1 cuộc cách mạng trong kỹ thuật quân sự, đưa tầm tiêu diệt thiết giáp hạng nặng của bộ binh đi bộ vượt qua xe tăng.
Lần đầu tiên tổ chiến dấu "Bé con" áp dụng ở Việt Nam năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đồn là quân Giải phóng có đạn biết ngửi (xem Trận Đắk Tô - Tân Cảnh, 1972).
Tháng 10 năm 1973, B41 và B72 thực hiện 1 trận thắng trên bán đảo Sinai, diệt 800 xe Israel (gần như toàn bộ), bắt sống chỉ huy xe tăng Israel.
Sản xuất và độ phổ biến
[sửa | sửa mã nguồn]RPG-7 là mẫu súng chống tăng phổ biến nhất thế giới, có ít nhất 50 nước sử dụng cho quân đội chính quy, chưa kể hàng trăm nhóm du kích, lực lượng vũ trang ở các nước khác. Nó có mặt trong hầu hết những cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1967 tới nay. Bất chấp việc đã ra đời từ rất lâu, mẫu súng phóng lựu này vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong lĩnh vực vũ khí chống tăng. RPG-7 vẫn được sử dụng rộng rãi trong các cuộc xung đột khu vực nhờ giá thành rẻ, dễ sử dụng và uy lực cao. Có hơn 9 triệu khẩu RPG-7 đã được chế tạo. Cùng với thiết kế súng AK-47, RPG-7 là một trong những vũ khí cá nhân phổ biến nhất thế giới kể từ thập niên 1960 tới tận giữa thế kỷ 21. Trong suốt hơn 80 năm, nó là trang bị tiêu chuẩn của quân đội hàng chục quốc gia, chưa kể hàng nghìn nhóm vũ trang, phiến quân, du kích... cũng ưa chuộng loại súng này
RPG được sản xuất rộng rãi trên thế giới, cả không phép và có phép. Kể cả những nước không thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa như Pakistan, Iran, Iraq. RPG-7 cũng có nhiều phiên bản với một số cải tiến chút ít.RPG-7 do Việt Nam sản xuất có tên B41 GIẢI PHÓNG, vẫn còn trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tại Hà Nội.
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]
Ống phóng có thể tái nạp, cấu tạo từ thép với đường kính 40 mm (1,6 in), dài 950 mm (37 in), và nặng 7 kg (15 lb). Phần giữa ống được quấn gỗ để bảo vệ xạ thủ khỏi nhiệt, đầu ống loe ra. Hệ thống ngắm thường là ống ngắm quang học, kèm đầu ruồi dự phòng, và có thể gắn thêm ống ngắm hồng ngoại thụ động và ống ngắm đêm. Các biến thể RPG-7N1 và RPG-7DN1 có thể lắp ống ngắm đa năng nhìn đêm 1PN51,[12] trong khi RPG-7N2 và RPG-7DN2 có thể lắp ống ngắm nhìn đêm đa năng 1PN58.[13]
Cũng như các vũ khí tương tự, đầu đạn lồi ra khỏi ống phóng. Nó có đường kính 40–105 mm (1,6–4,1 in) và nặng từ 2 kg (4,4 lb)[14] đến 4,5 kg (9,9 lb). Đạn được phóng ra nhờ liều phóng thuốc súng không khói, cho vận tốc ban đầu 115 m/s (380 ft/s), đồng thời tạo ra một đám khói xanh xám nhạt có thể làm lộ vị trí xạ thủ.[15] Động cơ rocket[a] cháy sau 10 m (33 ft) và duy trì hành trình đến 500 m (1.600 ft) với vận tốc tối đa 295 m/s (970 ft/s). Đạn được ổn định nhờ hai bộ cánh đuôi bung ra trong không trung: một bộ lớn để giữ hướng và một bộ nhỏ phía sau tạo lực xoay. Tầm bay tối đa đạt 1.100 m (3.600 ft), với ngòi nổ giới hạn tầm bắn, thường là 920 m (3.020 ft).[16]
Hệ thống đẩy
[sửa | sửa mã nguồn]
Theo tài liệu của United States Army Training and Doctrine Command (TRADOC) Bulletin 3u (1977) Soviet RPG-7 Antitank Grenade Launcher—Capabilities and Countermeasures, đạn RPG-7 gồm hai phần: phần liều phóng và phần đầu đạn và động cơ duy trì. Hai phần này phải được lắp ráp để tạo thành quả đạn sẵn sàng sử dụng. Liều phóng gồm một “liều thuốc dạng dải nhỏ” dùng để đẩy đạn ra khỏi ống phóng; sau đó động cơ duy trì cháy, tiếp tục đẩy quả đạn thêm vài giây, cho vận tốc tối đa 294 m/s (960 ft/s). Tài liệu của TRADOC cũng ghi nhận rằng RPG-7 có thể được bắn từ trong các tòa nhà, điều này phù hợp với thiết kế hai giai đoạn. Chỉ cần một khoảng trống 2 mét (6,6 foot) phía sau là có thể bắn trong phòng hoặc công sự. Các cánh ổn định không chỉ tạo lực cản mà còn tạo lực xoay chậm cho đạn.[cần dẫn nguồn]
Do cấu hình phần đầu đạn/động cơ duy trì của RPG-7, nó phản ứng khác thường với gió ngang. Gió thổi ngang sẽ tác động lên các cánh ổn định, khiến đầu đạn quay vào hướng gió. Khi động cơ vẫn đang cháy, đường bay sẽ bị cong theo chiều gió. Tài liệu của TRADOC cũng phân tích chi tiết khó khăn khi ngắm bắn mục tiêu di động ở tầm xa trong điều kiện có gió ngang.
Đạn
[sửa | sửa mã nguồn]Thông số một vài loại đạn thông dụng
[sửa | sửa mã nguồn]Súng ban đầu bắn đạn PG-7, sau đó Liên Xô/Nga chế tạo các loại đạn khác như PG-7V, PG-7VM, PG-7VL, PG-7VR là các đạn xuyên phá vỏ thép chống tăng (HEAT). Đạn TBG-7V là đạn nhiệt áp chống lô cốt, công trình. Đạn OG-7, OG-7A là đạn nổ phá - văng mảnh để sát thương bộ binh (APER, nhưng phương Tây thường cho là đạn HE. APER là đạn nhồi một ít thuốc nổ mạnh, chủ yếu khối lượng là mảnh sát thương, còn HE là đạn nhiều thuốc nổ để phá công trình). Ngoài ra còn có nhiều loại đạn khác do các nước khác tự chế tạo.
Danh sách dưới đây dựa theo mẫu RPG-7V1:
| Tên mã | Năm sử dụng | Loại | Hình ảnh | Trọng lượng đầu đạn | Đường kính đầu đạn | Tầm bắn hiệu quả | Liều nổ[17][18] | Đường kính đạn | Độ xuyên | Bán kính sát thương |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| PG-7V | 1961 | Đạn nổ 1 tầng | 2,2 kg (4,9 lb) | 85mm | 350m | 500 g (18 oz) OKFOL (95% HMX + 5% wax) | 85 mm (3,3 in) | >260 mm (10 in) RHA | ||
| PG-7VL | 1977 | Đạn nổ 1 tầng | 2,6 kg (5,7 lb) | 93mm | 500m | 730 g (26 oz) | 93 mm (3,7 in) | >500 mm (20 in) RHA | ||
| PG-7VR | 1988 | Đạn nổ 2 tầng (Tandem) | 4,5 kg (9,9 lb) | 64mm (tầng 1) và 105mm (tầng 2) | 200m | 1,43 kg (3,2 lb) OKFOL (95% HMX + 5% chất dẫn cháy) | 64 mm (2,5 in)/105 mm (4,1 in) | 600 mm (24 in) RHA ( có giáp phản ứng nổ) 750 mm (30 in) RHA ( không có giáp phản ứng nổ) |
||
| TBG-7V | 1988 | Đầu đạn nhiệt áp | 4,5 kg (9,9 lb) | 105mm | 250m | 1,9 kg (4,2 lb) ОМ 100МИ-3Л + 0,25 kg (0,55 lb) A-IX-1 (chất nhiệt áp) | 105 mm (4,1 in) | 10 m (30 ft) | ||
| OG-7V | 1999 | Đạn phân mảnh | 2 kg (4 lb) | 40mm | 350m | 210 g (7,4 oz) A-IX-1 | 40 mm (1,6 in) | 7 m (23 ft)[19][20] |

-
Đầu đạn lõm PG-7VL để diệt xe tăng
-
Đầu đạn 2 đầu nổ PG-7VR để diệt xe tăng có giáp phản ứng nổ. Đầu đạn thứ nhất làm nổ tung mảnh giáp phản ứng nổ, sau đó đầu đạn thứ hai bắn vào chỗ không còn giáp.
-
Đầu đạn nổ văng mảnh OG-7V để diệt bộ binh
-
Đầu đạn nhiệt áp TGB-7V để diệt bộ binh nấp trong lô cốt
Độ chính xác
[sửa | sửa mã nguồn]| Khoảng cách m (ft) |
Phần trăm trúng |
|---|---|
| 50 (160) | 100 |
| 100 (330) | 96 |
| 200 (660) | 51 |
| 300 (980) | 22 |
| 400 (1.300) | 9 |
| 500 (1.600) | 4 |
Biểu đồ hiện đang tạm thời không khả dụng do vấn đề kĩ thuật. |
Theo một dữ liệu khác từ Quân đội Hoa Kì sử dụng một mục tiêu 5 nhân 2,5 mét (16,4 ft × 8,2 ft) đang di chuyển theo phương ngang với vận tốc 4 m/s (13 ft/s).[10] Trong điều kiện có gió ngẫu nhiên khoảng 11 km/h (6,8 mph), người bắn từ một địa điểm cố định, tỉ lệ trúng trong phát đầu tiên nằm dưới 50% ở khoảng cách 180 m (590 ft).[21]
Nguyên lý hoạt động của đạn
[sửa | sửa mã nguồn]Đạn chuyển động trong nòng
[sửa | sửa mã nguồn]Đạn PG-7 bắn ra khỏi đầu nòng với sơ tốc 115 m/s, đạn gồm 2 phần, liều phóng và đầu đạn. Cũng như B40, liều phóng được lắp vào đầu đạn trước khi lắp đạn vào súng. Đạn có 4 cánh gập ngược lên phía trước chứ không cuộn quanh thân đạn như B40, khi bắn ra khỏi nòng các cánh này xòe ra. Liều phóng có một lõi cứng, đằng sau lõi này là một turbine xoắn, điều này làm đạn xoáy rất mạnh ngay từ trong nòng súng.
Sơ tốc (cả xoáy và chuyển động thẳng) của đạn làm súng có độ chính xác cao, thuận tiện cho nhiệm vụ bắn mục tiêu di động. Thực ra, các súng không giật có thể có tầm rất xa (như các đạn M-13 của BM-13 Katyusha). Nhưng để chống tăng chỉ cần độ chính xác, điều này hạn chế tầm bắn hiệu quả, giảm rất nhiều so với tầm bắn tối đa.
Đạn khi bay
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi ra khỏi nòng 11 mét, động cơ tên lửa hoạt động, đẩy đạn PG-7 lên đến vận tốc 295 m/s. Đến 900 mét, đạn tự hủy bằng ngòi cháy chậm, nếu ngòi này không làm việc, đạn bay đến 1100 mét. Động cơ tên lửa khởi động chậm tránh xạ thủ dính vào luồng phụt.
Tên lửa của đạn có một vị trí đặc biệt, tạo hiệu quả lớn. Tên lửa nằm trên chuôi đạn, nhưng khí cháy lộn lên trước rồi lại lộn về qua 6 tuye ở cổ đạn, cách bố trí này làm áp suất thay đổi nhiều lần, tuye ngắn nhưng hiệu quả như tuye dài, diện tích miệng tuye lớn. Cánh đuôi và tuye đều đặt nghiêng thích hợp với đạn xoay. Chính tên lửa đẩy mạnh đã làm RPG-7 khác hẳn các đời trước.
Liều phóng và tên lửa đẩy đều làm bằng hỗn hợp thành phần chính thuốc súng không khói. Khi bắn, súng có một chút ít khói xanh, hầu như không thể phát hiện ban ngày, không như B40 dùng thuốc nổ đen nhiều khói.
Đạn PG-7V có sơ tốc đầu nòng 127 m/s, đạn PG-7VM có sơ tốc 140 m/s. Đạn PG-7 có tầm hiệu quả 250 mét, các đạn PG-7VM có tầm bắn hiệu quả với mục tiêu di động 350 mét, mục tiêu cố định 500 mét. Đạn hạng nặng PG-7VR tầm hiệu quả 200 mét. Khi tầm quá 200 mét, tốc độ gió trên 20 km/h, đạn bị ảnh hưởng khá nhiều bởi sức gió. Người bắn sử dụng thước ngắm chia vạch để xác định độ lệch phát bắn, điều đó đòi hỏi được huấn luyện kỹ càng. Đạn lệch về phía đầu nguồn gió.
Hình bên thể hiện đồ thị thời gian bay của đầu đạn, tốc độ cao và nặng như viên đạn đại bác nhỏ, đảm bảo bắn chính xác ở xa.
Đầu nổ lõm
[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu nổ của các đạn xuyên PG-7, PG-7V, PG-7VM, PG7VR dùng thuốc nổ mạnh, nhưng cơ chế nổ lõm gần giống B40, là góc mở rộng có lót tấm tích năng lượng. Liều nổ của B41 có góc mở hẹp hơn của B40. Liều này được điểm hỏa chính xác bằng ngòi nổ điện, đầu viên đạn có bộ phận sinh điện, bộ phận này kích ngòi nổ điện nằm ở cổ đạn, sức nổ dược trạm truyền nổ truyền đến thuốc nổ chính. Phía sau liều nổ lõm có tấm chắn sức nổ, tạo thuận lợi cho việc làm dài liều nổ, sức xuyên mạnh hơn, tập trung về phía trước, ít bị ảnh hưởng của góc chạm hơn.
Đạn PG-7VR hai tầng, tầng đầu công phá ERA, tầng tiếp theo phá giáp chính. Đây là đạn hiện đại hóa chống giáp hiện đại.
Đạn có mũ chụp rất vững, mũ này có những cạnh thép sắc, giúp đạn di qua những vật cản như lưới thép, bao cát, tường mềm trước khi va vào giáp cứng. Kiểu liều nổ lõm cũng được cải tiến lớn. Đạn có thêm phía trong mũ chụp một vách dẫn luồng có hình dạng đặc biệt (xem ảnh), dẫn luồng này làm luồng đạn hội tụ trong điểm rất nhỏ, tăng khả năng xuyên. Ống chụm này cùng chụp tạo thành mũ rất chắc.
Sức xuyên của PG-7V khoảng 270mm thép cán theo cách tính Nga, nhưng các tài liệu phương Tây thường ghi 330mm hoặc 350mm theo phương pháp thử nghiệm của họ (phương Tây lấy góc chạm đứng, người Nga gọi đó là khả năng xuyên lớn nhất). Đạn PG-7VL xuyên 500mm, các đạn PG-7VR hai tầng xuyên 600mm vượt qua giáp phản ứng nổ ERA chỉ bằng một phát bắn.
Ngòi và truyền nổ
[sửa | sửa mã nguồn]Khi mũ chụp bị phá hủy, điện phát sinh kích nổ đạn rất chính xác. Đây là phương án hết sức ưu việt nếu so với các vũ khí cùng chức năng khác truyền nổ bằng dây truyền nổ, trạm truyền nổ, thanh truyền lực kích nổ, đạn (một viên đạn bắn từ ngòi vào kích nổ chính)... xuất phát từ kim hỏa-hạt nổ. Thời điểm điểm nổ chính xác của ngòi dùng tinh thể áp điện đến một phần vạn giây, so với các ngòi dùng kim hỏa-hạt nổ chỉ một phần vài chục giây. Nhờ thế, khoảng cách phát nổ của B41 đạt chính xác tới cỡ vài cm.
Chính ngòi nổ điện này cùng các đặc điểm khác làm đạn B41 có xác suất diệt mục tiêu cao, không phụ thuộc vào các điều kiện dễ gặp như lưới B40, bao cát, rất ít phụ thuộc vào góc chạm.
Trạm truyền nổ của B41 thừa kế kỹ thuật của B40. Phản ứng nổ bắn đầu từ tâm một chữ U, truyền qua cạnh chữ U này vào giữa cạnh V của đầu lõm, nhờ đó toàn bộ đầu lõm phát nổ đồng đều. Hàng chục năm sau người Đức mới chế tạo các Panzerfaust có trạm truyền nổ tương tự, vào thập niên 199x, khi Liên Xô sụp đổ và kỹ thuật thất thoát.
PUS-7 (ПУС-7) là đạn huấn luyện.
Cách bắn
[sửa | sửa mã nguồn]- Súng có thể đứng bắn, nằm bắn, quỳ bắn.
- Khi bắn, xạ thủ phải tránh hình chóp góc 30 độ sau súng.
- Không có tường cản trong vòng 2 mét sau súng.
- Có thể bắn trong phòng vài trăm mét khối.
- Trước khi bắn, xạ thủ phải xác định hướng gió và tốc độ gió, hướng di chuyển và tốc độ mục tiêu.
- Sau đó thực hiện đo xa, nếu mục tiêu đủ gần thì không cần bù gió.
- Bù gió và bù tốc độ mục tiêu.
- Bắn nhưng giữ nguyên súng, quan sát độ lệch đạn nếu trượt.
- Bắn tiếp có bù độ lệch.
- Súng không tạo khói như B40 nên rất khó phát hiện ban ngày. Nhưng ban đêm, súng có chớp sáng nhỏ.
- Súng có tiếng nổ đầu nòng rất nguy hiểm, mỗi xạ thủ chỉ được bắn liên tục 5-6 phát (thậm chí là chỉ tối đa 3 phát).
- Súng nạp đạn chậm, khi chỉ một mình xạ thủ, tốc độ bắn chỉ tối đa 4 phát phút.
- Để cải thiện tốc độ bắn, những người cùng tổ lắp sẵn liều cho xạ thủ. Nhờ đó tăng tốc độ bắn đến 6 phát mỗi phút dễ dàng.
- Chú ý B41 không có lỗ thoát khí bên phải như B40.
Việc bắn B41 đòi hỏi huấn luyện rất kỹ càng, trong cuốn sách quân sự Mỹ năm 1976,[22] người Mỹ dựa vào kiến thức cóp nhặt, nên đặt cách bù gió đo xa rất sai, điều này dẫn đến họ bắn thử nghiệm chỉ đạt tầm hiệu quả 180 mét. Một cách để tăng kinh nghiệm xạ thủ là tổ chức 2-3 tổ từ các hướng rất khác nhau, bắn lần lượt, điều này làm tăng khả năng an toàn cho xạ thủ, bù trừ sai số ước lượng của các xạ thủ về tốc độ gió và mục tiêu, các xạ thủ đã bắn nhiều phát sẽ có kinh nghiệm ước lượng tầm xa và lệch gió tốt, làm tăng tỷ lệ bắn trúng đích.
Chiến thuật
[sửa | sửa mã nguồn]Chống xe tăng
[sửa | sửa mã nguồn]Trong Chiến tranh Việt Nam, giáp xe tăng chưa có công nghệ cao, chưa có ERA, nên súng B41 rất lợi hại, xuyên được tất cả các xe thiết giáp lúc đó (kể cả xe tăng M48 Patton, M60). Bộ binh và du kích Việt Nam sử dụng hai chiến thuật săn xe:
- Một là sử dụng tổ bộ binh nhỏ, luồn sâu, phục kích. Điều nguy hiểm với xe tăng là khi B41 áp sát được tầm dưới 100 mét, đến lúc này, xạ thủ ngắm bắn chính xác vào những chỗ hiểm như ổ đỡ tháp pháo, phía sau xe, khoang chứa đạn sau tháp pháo... Những phát bắn này thường tiêu diệt tức khắc mục tiêu. Khi phòng ngự, khi xe tăng đến gần, các xạ thủ bám chiến hào, công sự, vật cản. Kết hợp với cối, mìn định hướng làm lui bộ binh đi cùng. Xe tăng khó có thể quan sát bao quát, khả năng bị diệt cao khi bị tấn công từ nhiều hướng.
- Hai là dùng nhiều tổ, phân tán, bắn liên tục từ nhiều hướng, di chuyển liên tục, bám sát. Trong địa hình rừng núi, đây là chiến thuật rất đáng sợ. Một số lượng lớn đầu đạn đến từ nhiều hướng bù những sai số ước lượng của xạ thủ, thông thường loạt đạn săn xe tăng này có kết quả tức khắc, mặc dù khoảng cách không nhỏ.
B41 rất đáng sợ với các xe bọc thép chở quân hỗ trợ bộ binh IFV. Những phát bắn phục kích xe này gây thương vong lớn, trong phim Cuộc chiến 10 ngàn ngày còn cảnh B-41 hạ một xe thiết giáp M113 đang di chuyển rất nhanh. Các xe bọc thép có vỏ mỏng hơn xe tăng, kể cả xe bọc thép hiện đại, nên không thể chịu được phát bắn của B-41.
Tháng 10-1973, trên bán đảo Sinai, quân Ai Cập bố trí kết hợp RPG và AT-3, bắn liên tục từ nhiều hướng, tạo chiến công lớn.
Chống bộ binh, lô cốt
[sửa | sửa mã nguồn]B41 có đạn sát thương nổ phá OG-A được dùng như pháo tấn công tầm gần (bắn mục tiêu chính xác), hỗ trợ cực kỳ bám sát. Tuy nhiên, nếu coi B41 như pháo hỗ trợ (field gun, bắn cấp tập hàng trăm phát lên một diện tích rộng) là điều hết sức sai lầm, lấy đồ nhà nghèo tiêu như nhà giàu.
B41 rất quan trọng trong tiểu đội bộ binh. Trong chiến thuật tiến công tiểu đội bộ binh của Việt Nam, thường chỉ 1 hoặc 2 trong 3 tổ là xung phong, 1-2 tổ còn lại ở phía sau bắn kiềm chế địch để hỗ trợ. Xạ thủ B41 trong tiểu đội bám sát chặt chẽ mũi tiến công, phát hiện và tiêu diệt ổ hỏa điểm (lô cốt, ụ súng máy của địch) trong tầm chiến đấu bộ binh (250 mét trở xuống). Ở tầm này, gọi chi viện pháo binh sẽ không kịp, nếu có xe đi cùng thì cũng rất nguy hiểm cho xe.
B41 ngoài mặt trận thường chỉ có đạn xuyên HEAT, đạn này sát thương không rộng, nhưng phương pháp sử dụng khá đa dạng. Đạn HEAT khi bắn vào tường dày, vách đá sẽ phát nổ, văng ra mảnh đạn dày đặc và sóng xung kích dữ dội gấp mấy lần so với lựu đạn, tiêu diệt được bộ binh trong bán kính cả chục mét. Nếu đạn nổ sát đất sẽ thổi một luồng khí định hướng kéo theo đất đá sát thương, độ chụm và tầm sát thương xa còn hơn cả mìn claymore. B41 trong chiến đấu thường sử dụng cách thức này, xạ thủ bắn vào đám đất phía trước địch để tạo ra luồng sát thương, có thể diệt nhiều địch chỉ với một phát bắn.
Việt Nam cũng chế ra mìn định hướng kiểu Việt Nam rất giống đạn B41, đặt sát mặt đất, thổi bay địch sát chiến hào tiền duyên như đại bác bắn đạn ria.
Mục tiêu hiện đại
[sửa | sửa mã nguồn]Trong chiến tranh Afghanistan, 80% số đạn RPG bắn về phía T-72 bị hệ thống đánh chặn Drozd phá hủy, đến cuối chiến tranh, việc bắn hỏng một chiếc T-72 ở đây rất khó, mặc dù du kích sử dụng những trung đội B41 săn xe lớn. Đã có một bộ phim hài Mỹ nói về các xạ thủ Mujahideen loay hoay quanh chiếc T-72 đơn độc mà không làm gì được nó.
Trong Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất (báo cáo năm 1997), có 62 xe tăng Nga bị các loại RPG bắn hạ, gồm T-62, T-72 và T-80, trong đó có nhiều xe bị trúng RPG đầu đạn hạng nặng. Nhưng chỉ 1 xe bị bắn hỏng xuyên qua ERA. Điều đó cho thấy ERA có tác dụng tốt khi chống lại RPG. Các xe khác bị bắn trong tình trạng chỉ có ERA phía trước (lúc đó Nga thiếu tiền trầm trọng), bị đạn bắn trúng sườn hoặc sau xe, một số xe bị bắn vào nóc xe. Du kích bố trí B41 trong nhiều tầng nhà, nhiều hướng, bắn trong phòng. Nóc xe tăng luôn là chỗ có giáp rất yếu.
Đến Chiến tranh Chechnya lần thứ hai, ERA và APS đóng góp vai trò quan trọng, lúc này phiến quân Chechnya có nhiều RPG hiện đại hơn, nhưng số lượng xe hỏng do trúng đạn không đáng kể.

Người Mỹ trước đây thường nghĩ rằng xe tăng hiện đại không sợ B41. Nhưng trận đánh đột kích vào sân bay Baghdad Iraq năm 2003 bị thất bại đã chứng tỏ, M1A1 có nhiều điểm bị B41 khoan thủng. Thực chất M1A1 không hề có ERA và APS, M1A2 có một chút nhưng khả năng bảo vệ thấp. Trong trận đánh đó, xe tăng Mỹ không có bộ binh đi kèm bị B41 bắn ngang sườn, đạn nổ, phá hủy hoàn toàn xe. Từ đó đến nay, các xe M1 nhiều lần bị bắn hỏng, phá hủy hoàn toàn vì các RPG, chủ yếu là B41.
Những đầu đạn hiện đại tỏ tác dụng trong xung đột Israel 6-2006, tuy nhiên, đến nay khó xác định được súng nào đã bắn cháy 22 tăng Israel trong 1 tháng, có khả năng là B41 dùng các đầu đạn 105mm hạng nặng. Điều này cho thấy chất lượng APS Israel còn nhiều vẫn đề.
Trận đánh Mogadishu, Somalia năm 1993 đã dược dựng thành phim nổi tiếng Blackhawk down. Tại đây, B41 bắn hạ trực thăng. Trong chiến tranh Việt Nam, cũng có trực thăng bị B41 bắn hạ, nhưng ít, người ta cũng đồn thổi về các chiến thuật bắn trực thăng B41 trong chiến tranh Afghanistan, nhưng rõ ràng đây là tán gẫu, như việc dùng B41 làm pháo binh bắn cường tập kiểu Mỹ. Thực ra, B-41 có thể bắn hạ trực thăng nhưng với điều kiện nó đang bay thấp và chậm.
Năm 2015, quân đội Ả Rập Saudi cũng sử dụng nhiều chiếc M1 để tấn công lực lượng Houthi ở Yemen, nhưng chiến dịch đã thất bại. Nhiều chiếc M1 đã bị bắn hạ bởi súng chống tăng RPG-7 và tên lửa chống tăng của quân Houthi.
B41 dùng đạn đời cũ không xuyên được giáp xe tăng hiện đại từ đằng trước, nhưng diệt được tất cả các xe thiết giáp khác. Để tăng sức xuyên, cần dùng đạn B-41 kiểu mới.
B41 hiện đại hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Với giáp tăng hiện đại, cần sử dụng đạn PG-7VR sức xuyên 750mm thép cán tiêu chuẩn. Nhưng đây là đạn nặng nặng hai tầng, tầm bắn hạ còn 200 mét.
Đầu đạn kiểu cũ như PG-7V, PG-7VM không còn đủ khả năng bắn xuyên giáp trước xe tăng hiện đại, nhưng vẫn hạ được xe tăng hiện đại nếu bắn vào hông xe, hoặc vẫn có thể hạ được các loại xe bọc thép và công sự.
Vẫn có các đạn cải tiến dùng cho súng RPG-7 như PG-7VL, RPG-7VR. Tuy nhiên, súng B-41 khi bắn đạn hạng nặng kiểu mới thì tầm hiệu quả chỉ còn 150-200 mét, ngày nay đời sau súng này là RPG-29 có tầm bắn hiệu quả tới 500 mét.
Các quốc gia sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]
Afghanistan[23]
Albania[23]
Algérie[23]
Angola[23]
Armenia[23]
Azerbaijan[23]
Bangladesh: Biến thể RPG Type 69 của Trung Quốc được Quân đội Bangladesh sử dụng.[25]
Belarus[23]
Bénin[23]
Botswana[23]
Bulgaria: Được sản xuất tại địa phương bởi Tập đoàn Arsenal với tên gọi ATGL-L..[26][27]
Burkina Faso[28][29]
Campuchia[23]
Cabo Verde[23]
Cộng hòa Trung Phi[23]
Tchad[23]
Trung Quốc: Bản sao Type 69 được bằng phương pháp reverse-engineering.[30]
Cộng hòa Congo[23]
Cộng hòa Dân chủ Congo[23]
Croatia[23]
Cuba[23]
Cộng hòa Síp[23]
Cộng hòa Séc[23]
Djibouti[23]
Indonesia[23]
Ai Cập: Được sản xuất tại địa phương không có giấy phép dưới dạng PG-7 bởi Nhà máy Sakr dành cho các ngành công nghiệp phát triển.[23][31]
Eritrea[23]
Estonia[23]
Fiji[32]
Georgia: Phiên bản sửa đổi "RPG-7D" do STC Delta sản xuất trong nước.[33][34][35]
Ghana[23]
Guinea[23]
Guyana[23]
Honduras[36]
Hungary[37]
Iran: Được sản xuất tại địa phương với tên gọi Sageg.[23] [38]
Iraq: Được sản xuất tại địa phương với tên Al - Nassira từ những năm 1980 bởi Ba'athist Iraq.[23][38]
Israel: Số lượng lớn được lưu trữ, được coi là vũ khí chống tăng thứ cấp. Được sản xuất trong nước.[39][40]
Jordan[23]- Bản mẫu:KUR[41]
Kazakhstan[23]
Kyrgyzstan[23]
Lào[23]
Latvia[23]
Lebanon[23]
Lesotho[42]
Liberia: Được sử dụng bởi cả Quân đội Liberia và các phe phái du kích trong Nội chiến Liberia.[43]
Libya: Được sử dụng bởi cả hai bên trong Nội chiến Libya.[23]
Madagascar[23]
Malaysia : Phiên bản ATGL-L của Bulgaria được mua và sử dụng từ đầu những năm 2000.[44][45]
Mali[46]
Malta[23]
Mauritanie[23]
Moldova[23]
Mông Cổ[23]
Maroc[23]
Mozambique[47]
Myanmar[48]
Nicaragua
Nigeria: Được sản xuất theo giấy phép của Tập đoàn Công nghiệp Quốc phòng Nigeria.[23][49]
Niger[50]
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: KPA sử dụng RPG-7 (Type 69) và đặc biệt họ còn nâng cấp đầu đạn lên dạng tandem tương tự RPG-7VR có sức công phá lớn hơn và chống được giáp phản ứng nổ. Đây là thiết kế cũ nhưng hiện tại vẫn rất hiệu quả, đặc biệt là ở những nước nhiều đồi núi như Triều Tiên.[23]
Bắc Macedonia[23]
Pakistan: Được sử dụng bởi Quân đội Pakistan và lực lượng bán quân sự. Phiên bản RPG-7V được sản xuất theo giấy phép của Nhà máy Máy công cụ Pakistan.[23] RPG-7V version made under license by Pakistan Machine Tool Factory.[51][52]
Papua New Guinea[53]
Philippines: Lực lượng Vũ trang Philippines có 3 biến thể khác nhau: 250 ATGL - L2 từ Bulgaria, 30 Type 69 từ Trung Quốc và 744 RPG - 7V2 từ Nga.[54]
Ba Lan: Sản xuất các biến thể RPG - 7 và RPG - 7W.[23][55]
România: Được sản xuất trong nước bởi SC Carfil SA từ Brașov với tên AG - 7 (tiếng Romania: Aruncătorul de Grenade 7 , Grenade Launcher 7).[23][56]
Nga[23]
Rwanda[23]
Cộng hòa Ả Rập Sahrawi Dân chủ: Được sử dụng bởi Mặt trận Polisario.[57]
São Tomé và Príncipe[23]
Sénégal[23]
Serbia: Được sản xuất bởi PPT Namenska.[58]
Seychelles[23]
Sierra Leone[23]
Somalia[59]
Hoa Kỳ:Đã phát triển nâng cấp RPG - 7 thành súng chống tăng PSRL - 1 USA phiên bản Mỹ tự chế tạo
Nam Phi: Lực lượng phòng vệ quốc gia Nam Phi.[60]
Nam Sudan: Các Lực lượng; Phong trào Dân chủ Nam Sudan, Phong trào/Quân đội Giải phóng Sudan, Lực lượng Phòng vệ Nam Sudan, Quân đội Giải phóng Nhân dân Sudan đã sử dụng RPG - 7, Type 69 và RPG do Iran sản xuất.[23]
Sri Lanka[23]
Sudan: Được sản xuất bởi Tập đoàn Công nghiệp Quân sự với tên gọi Sinar.[61]
Suriname: Được sử dụng bởi Quân đội Suriname.[23]
Syria[23]
Tajikistan[23]
Turkmenistan[23]
Uzbekistan: Sản xuất trong nước.[23]
Ukraine Ukraine mua súng chống tăng PSRL - 1 của Hoa Kỳ và xuất hiện từ năm 2017 với hợp đồng trị giá khoảng 500.000 USD.[23]
Venezuela[23]
Việt Nam: Sản xuất trong nước và được ký hiệu là RPG - 7V - VN. Cũng được công nhận phổ biến dưới tên gọi B41.[23]
Yemen[23]
Zambia[23]
Zimbabwe[23]
... và các tổ chức, phiến quân.
Các chiến trường
[sửa | sửa mã nguồn]1960s
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiến tranh Việt Nam (1955–1975): Sử dụng lần đầu trong chiến tranh năm 1967.[40]
- Chiến tranh du kích Rhodesia (1964–1979)
- Chiến tranh Sáu Ngày (1967)[40]
1970s
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiến tranh Yom Kippur (1973)[62]
- Nội chiến Ethiopia (1974–1991)
- Nội chiến Liban (1975–1990)
- Nội chiến Angola (1975–2002)
- Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 (1979)
- Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan (1979–1989)[63]
1980s
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiến tranh Iran – Iraq (1980–1988)
- Nội chiến Sri Lanka (1983–2009)[64]
- Nội chiến Sudan lần thứ hai (1983–2005)
1990s
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiến tranh Vùng Vịnh (1990–1991)[65]
- Nội chiến Somalia (1991–nay)[65]
- Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất (1994–1996)[66]
- Chiến tranh Eritrea–Ethiopia (1998–2000)
- Chiến tranh Chechnya lần thứ hai (1999–2009)[66]
2000s
[sửa | sửa mã nguồn]2010s
[sửa | sửa mã nguồn]- Nội chiến Syria (2011–nat)
- Nội chiến Libya lần thứ nhất (2011)
- Nội chiến Cộng hòa Trung Phi (2012–present)
- Chiến tranh Iraq (2013–2017)
- Nội chiến Nam Sudan (2013–2020)
- Nội chiến Libya lần thứ hai (2014–2020)
- Nội chiến Yemen (2014–nay)
2020s
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiến tranh Tigray (2020–2022)
- Chiến tranh Nga-Ukraina (2022–đang diễn ra)
- Chiến tranh ở Amhara (2023–đang diễn ra)
- Chiến tranh Israel – Hamas (2023-đang diễn ra)
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ "RPG-7/RPG-7V/RPG-7VR Rocket Propelled Grenade Launcher (Multi Purpose Weapon)". Defense Update. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
- ^ "Iraqi Gun Market Trends: Early January – SIG Sauer M17 Handgun, NEA PDW-CCS". silahreport. ngày 3 tháng 2 năm 2020.
- ^ Small Arms Survey. Graduate Institute of International Studies. 2004. tr. 8.
- ^ Rottman 2010, tr. 41.
- ^ Theo:
- Bách khoa cho thiếu niên, tập 14: Kỹ thuật, Nhà xuất bản Avanta, Nga, 1999, tr. 494
- Từ điển Kỹ thuật quân sự, Viện Kỹ thuật quân sự-Cục khoa học quân sự xuất bản, 1990, tr. 240, tr. 419
- ^ "RPG". Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2015.
- ^ "PG-7VM round". GunRF. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
- ^ "Nga tiếp thêm sức mạnh cho "hỏa thần diệt tăng" RPG".
- ^ [1]
- ^ a b TRADOC Bulletin 1, Range and Lethality of U.S. and Soviet Anti-Armour Weapons. United States Army Training And Doctrine Command. ngày 30 tháng 9 năm 1975. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014.
- ^ TRADOC Bulletin 3, Soviet RPG-7 Antitank Grenade Launcher (PDF). United States Army Training And Doctrine Command. tháng 11 năm 1976. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2019.
- ^ ИЗДЕЛИЕ 1ПН51 ТЕХНИЧЕСКОЕ ОПИСАНИЕ И ИНСТРУКЦИЯ ПО ЭКСПЛУАТАЦИИ [Product 1PN51 Technical Description and Operating Instructions] (bằng tiếng Nga). tháng 1 năm 1992. tr. 11, 16.
- ^ ИЗДЕЛИЕ 1ПН58 ТЕХНИЧЕСКОЕ ОПИСАНИЕ И ИНСТРУКЦИЯ ПО ЭКСПЛУАТАЦИИ [Product 1PN58 Technical Description and Operating Instructions] (bằng tiếng Nga). tháng 2 năm 1991. tr. 5, 15.
- ^ "RosOboronExport". rusarm.ru. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2014.
- ^ (U.S.), Infantry School; School, United States Army Infantry; Office, United States Army Infantry School Editorial and Pictorial; Dept, United States Army Infantry School Book (ngày 3 tháng 10 năm 1998). "Infantry". U.S. Army Infantry School – qua Google Books.
- ^ Grillo, Ioan (ngày 25 tháng 10 năm 2012). "Mexico's Drug Lords Ramp Up Their Arsenals with RPGs". Time. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2013 – qua world.time.com.
- ^ Per Ordata Lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2010 tại Wayback Machine
- ^ Per [2] Lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2011 tại Wayback Machine defense-update RPG-29 due to PG-29V and PG-7VR has same warhead
- ^ Tilstra, Russel C. (ngày 10 tháng 1 năm 2014). Small Arms for Urban Combat: A Review. ISBN 9780786488759.
- ^ "OG-7V Fragmentation round". Rosoboronexport. Rosoboronexport.
- ^ TRADOC Bulletin 3, Soviet RPG-7 Antitank Grenade Launcher (PDF). United States Army Training And Doctrine Command. tháng 11 năm 1976. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2019.
- ^ 20010803 107, November 1976, Soviet Anti tank Grenade Launcher
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg bh bi bj bk bl bm bn bo bp Jones, Richard D. Jane's Infantry Weapons 2009/2010. Jane's Information Group; 35 edition (27 January 2009). ISBN 978-0-7106-2869-5.
- ^ Gore, Patrick Wilson (2008). 'Tis Some Poor Fellow's Skull: Post-Soviet Warfare in the Southern Caucasus. iUniverse. tr. 60. ISBN 9780595486793. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
RPG-7 karabagh.
- ^ Small Arms Survey (2011). "Larger but Less Known: Authorized Light Weapons Transfers". Small Arms Survey 2011: States of Security. Oxford University Press. tr. 29. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2011.
- ^ "40 mm ATGL-L Family - Arsenal JSCo. - Bulgarian manufacturer of weapons and ammunition since 1878". www.arsenal-bg.com.
- ^ ATGL-L anti-tank grenade launcher Lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2010 tại Wayback Machine, arsenal.bg
- ^ "Burkina Faso: Un véhicule emporté lors d'un braquage à Ouahigouya". koaci.com (bằng tiếng Pháp). ngày 13 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
- ^ Cherisey, Erwan de (tháng 7 năm 2019). "El batallón de infantería "Badenya" de Burkina Faso en Mali – Noticias Defensa En abierto". Revista Defensa (bằng tiếng Tây Ban Nha) (495–496).
- ^ Rottman 2010, tr. 36.
- ^ Rottman 2010, tr. 37.
- ^ "Rosyjska broń dla Fidżi" (bằng tiếng Ba Lan). altair.pl. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2016.
- ^ "Anti-tank rocket-propelled grenade launcher RPG-7G". Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015.
- ^ "ქართული წარმოების სამხედრო აღჭურვილობა". geo-army.ge. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2014.
- ^ "RPGL-7D : Versatile, Cost Effective, Lethal" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2014.
- ^ "Llamarán a testificar a cuatro oficiales por robo de 22 RPG-7 en Honduras". elheraldo.hn. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2024.
- ^ Lugosi, József (2008). "Gyalogsági fegyverek 1868–2008". Trong Lugosi, József; Markó, György (biên tập). Hazánk dicsőségére: 160 éves a Magyar Honvédség. Budapest: Zrínyi Kiadó. tr. 389. ISBN 978-963-327-461-3.
- ^ a b Rottman 2010, tr. 38.
- ^ Katz, Samuel (1986) Israeli Defence Forces Since 1973. Osprey ISBN 0-85045-687-8
- ^ a b c Rottman 2010, tr. 33.
- ^ Military & Defense. "Peshmerga Military Equipment". Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
- ^ Berman, Eric G. (tháng 3 năm 2019). Beyond Blue Helmets: Promoting Weapons and Ammunition Management in Non-UN Peace Operations (PDF). Small Arms Survey/MPOME. tr. 43. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2019.
- ^ Rottman 2010, tr. 43.
- ^ Nazrini Badarun (ngày 24 tháng 5 năm 2017). "Unit khas polis ESSZONE akan terima RPG baru" (bằng tiếng Mã Lai). New Sabah Times. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2017.
- ^ "Rocket-propelled grenade boost for security". Daily Express. ngày 24 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2017.
- ^ Touchard, Laurent (ngày 18 tháng 6 năm 2013). "Armée malienne : le difficile inventaire". Jeune Afrique. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
- ^ Vines, Alex (tháng 3 năm 1998). "Disarmament in Mozambique". Journal of Southern African Studies. 24 (1): 191–205. doi:10.1080/03057079808708572. JSTOR 2637453.
- ^ "Myanmar Witness - Centre for Information Resilience" (PDF). www.myanmarwitness.org. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2025.
- ^ Okoroafor, Cynthia (ngày 27 tháng 8 năm 2015). "You probably didn't know that Nigeria already manufactures these weapons". Ventures. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2017.
- ^ "Bundeswehr in Niger: Unterwegs mit einer Patrouille". www.bmvg.de. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2017.
- ^ "IDEAS 2012". Small Arms Defense Journal. 6 (3). ngày 5 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
- ^ "IDEAS 2016—Pakistan". Small Arms Defense Journal. 9 (4). ngày 13 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2017.
- ^ Alpers, Philip (2010). Karp, Aaron (biên tập). The Politics of Destroying Surplus Small Arms: Inconspicuous Disarmament. Abingdon-on-Thames: Routledge Books. tr. 168–169. ISBN 978-0-415-49461-8.
- ^ "Philippines starts transition to RPG-7 infantry rocket launchers". Asia Pacific Defense Journal. ngày 31 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2020.
- ^ Rottman 2010, tr. 39.
- ^ "Carfil website". Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2007.
- ^ Ignacio Fuente Cobo; Fernando M. Mariño Menéndez (2006). El conflicto del Sahara occidental (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Ministerio de Defensa de España & Universidad Carlos III de Madrid. tr. 78. ISBN 84-9781-253-0.
- ^ "Rbr7 - PPT NAMENSKA". www.ppt-namenska.rs. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
- ^ "Anti Tank weapons". South African Army. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2014.
- ^ Small Arms Survey (2014). "Weapons tracing in Sudan and South Sudan" (PDF). Small Arms Survey 2014: Women and guns (PDF). Cambridge University Press. tr. 227, 229, 234. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
- ^ Sinar Light Antitank Rocket Launcher Lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2009 tại Wayback Machine Retrieved on 17 March 2009.
- ^ Rottman 2010, tr. 62.
- ^ Rottman 2010, tr. 63.
- ^ "LTTE's Rare Infantry Weapons". srilankaguardian.org. ngày 17 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b c d Rottman 2010, tr. 70.
- ^ a b Rottman 2010, tr. 64.
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Soviet Anti tank Grenade Launcher. UNITED STATED ARMY TRAINING AND DOCTRINE COMMNAD. 20010803 107, November 1976.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- http://www.reyndar.org/beslan/forum/index.php/topic,14.0.html
- https://web.archive.org/web/20040220114057/http://www.geocities.com/peru_defensa_nacional/pages/rpg7.htm trang này là trang scan tạp chí.
- Giới thiệu sơ các mẫu RPG-7
- Giới thiệu sơ RPG-7
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng



